HOÀI NAM
Ý niệm về nghề giáo trong tuổi thơ của tôi thật mơ hồ!
Minh họa: Nguyễn Thiện Đức
Thuở nhỏ, khi còn là một con bé tóc vàng hoe nắng gió, chiều chiều, tôi thường cõng cậu em trai ra sân đài liệt sĩ nằm gần trung tâm thị xã để chơi cùng các bạn. Bọn trẻ tụ tập đông lắm vì đây là nơi gần như duy nhất chúng có chỗ để chơi. Tùy theo sở thích, mỗi nhóm chơi một trò: chơi ô, chơi gụ, chơi chuyền, nhảy lò cò, đá bóng, kéo co… các trò chơi như những bài đồng dao cứ thế lặp đi lặp lại nhưng chưa bao giờ chúng cảm thấy chán. Cho đến cái ngày đoàn xiếc Trung ương về biểu diễn…
Tôi vẫn nhớ như in ngày đó, khi được thông báo sắp có đoàn xiếc về biểu diễn ở thị xã hai đêm, dân tình từ già đến trẻ đều háo hức mong ngóng như một sự kiện đặc biệt. Cha tôi ra điều kiện, chỉ đứa nào làm việc tốt mới được đi xem. Ngày thường chị em tôi vẫn hay chí chóe cãi cọ tị nạnh đùn đẩy nhau việc nhà nhưng mấy hôm đó đứa nào cũng bỗng dưng chăm ngoan kỳ lạ, không ai bảo ai cứ răm rắp làm việc rất tự giác. Tôi cũng được cha duyệt cho đi xem một tối. Sau lần đó, bọn trẻ ngồi đâu cũng kháo nhau chuyện xiếc và chuyển các trò chơi thường ngày sang bắt chước làm trò xiếc lúc nào không hay. Tôi và mấy đứa con gái thì thích uốn dẻo, tung hứng. Chiều chiều, mỗi khi cõng em ra sân chơi, tôi đặt thằng em lê la giữa nền gạch cũ rồi cứ thế tập uốn dẻo. Tôi bắt chước khá nhanh, chả mấy chốc đã có thể làm được động tác ngã người, uốn về sau để lò cả cái mặt ra trước hai cái chân như mấy cô diễn viên xiếc vẫn làm trước sự tán thưởng của bạn bè. Tôi mải mê tập đến nỗi có khi rách toác cả đáy quần cũng không biết. Đến lúc phát hiện ra thì tìm đại một cái dây chuối khô buộc túm lại, thế là lại tập tiếp. Mẹ tôi vốn là một nữ sinh Đồng Khánh Huế, giỏi nghề đan thêu nên ngán ngẩm lắc đầu về cái khoản xoay xở này của tôi: Không biết nó giống ai! Còn tôi, vẫn cứ mải mê uốn xoạc, đến nỗi, nhiều đêm, trong giấc ngủ chập chờn, tôi mơ thấy mình như mấy cô diễn viên xiếc được mặc những bộ đồ lóng lánh, bay lượn trong ánh đèn đủ màu và thầm nguyện sau này mình sẽ làm một diễn viên uốn dẻo của một đoàn xiếc nào đó…
Nhưng một biến cố bất ngờ đầu đời đã đến!
Vào một buổi tối, khi vừa kết thúc năm học, cha tôi bằng cái giọng trịnh trọng khác thường đã gọi tôi lên nhà trên nói chuyện. Chẳng rào đón gì cha vào thẳng vấn đề: Con biết đó, trong nhà đã có anh chị con vào đại học, nếu con cũng học đại học nữa thì chắc chắn sẽ không còn cơ hội cho hai em trai con (hồi đó luật bất thành văn gần như là vậy). Cha tiếp, hiện nay cha biết đang có mở một lớp trung cấp vô tuyến điện, cha đã làm đơn xin cho con nhập học; con theo học nghề đó cũng có tương lai. Tôi ngẩn người, một thoáng trì độn không hiểu chuyện gì đã xẩy ra nhưng ngay sau đó bỗng nhận ra sự nghiêm trọng của vấn đề. Thế là mình sẽ không được đi học nữa sao? Bản năng trỗi dậy sự phản kháng nhưng không hiểu sao tôi chỉ biết ngồi chết lặng mặc cho những giọt nước mắt cứ lăn tràn trên gò má. Tôi đang học tốt, được chọn vào lớp toán nữa nên rất ham học và thường mơ về một trường đại học nào đấy như các anh chị tôi đã từng. Nhưng tôi biết tính cha rất nghiêm, không khi nào nói hai lời nên đành thuận theo. Tôi đã phải khai thêm tuổi để đủ tuổi đi học nghề. Sau mười tám tháng theo học tại một trường trung cấp, với tấm bằng xuất sắc, tôi trở thành cô công nhân kỹ thuật vô tuyến và được điều về làm việc tại xưởng Truyền thanh Cục Truyền thanh.
Năm 1972 - Đó là một cái mốc lớn của lịch sử dân tộc và cả chính cuộc đời tôi. Đó là thời điểm cuộc chiến chống Mỹ của toàn dân tộc diễn ra vô cùng ác liệt. Hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng trên chiến trường miền Nam cũng như phòng thủ đường không ở miền Bắc diễn ra đồng thời ở khắp hai miền Nam Bắc. Chiến cục này kéo dài cho đến ngày 31/1/1973, ba ngày sau khi Hiệp định Paris có hiệu lực. Từ hiệp định này đã tạo thế xoay chuyển có lợi cho Cách mạng Việt Nam dẫn đến ngày toàn thắng 30/4/75.
Giữa những ngày sôi động đó, Trung ương đã có chủ trương chi viện cho miền Nam một đội ngũ cán bộ nòng cốt với một số ngành nghề cơ bản chuẩn bị cho ngày thống nhất đất nước. Tôi là con em miền Nam được theo cha mẹ ra Bắc tập kết. Cũng như những cán bộ miền Nam ra Bắc, gia đình tôi ai cũng đau đáu hướng vọng về quê hương. Lúc bấy giờ tôi sống cùng với gia đình ông cậu ở Hà Nội. Cậu tôi là một đạo diễn phim quân đội. Ông có hai người con trai nên coi nó như con gái. Tôi chịu ảnh hưởng từ ông khá nhiều trong suy nghĩ và lối sống của một nhân cách nghệ sĩ, chiến sĩ. Cứ gần như mỗi tháng một lần, ông lại đưa tôi đến K15 - nơi các cô chú miền Nam ra dưỡng thương đóng ở Hà Tây để thăm họ. Được gặp gỡ trò chuyện, được nghe bao câu chuyện về cuộc đời cũng như cuộc chiến của họ đã làm dấy lên trong tôi niềm cảm phục và khao khát được trở về. Tôi quyết định tình nguyện đi B mặc cho những lời khuyên can của người thân bạn bè níu giữ. Họ bảo tôi là con gái, lại đang có việc làm, hộ khẩu Hà Nội ai lại dại dột như tôi. Hồi đó có được hộ khẩu Hà Nội là rất khó. Khó đến mức người ta thường tạo ra các giai thoại buồn cười. Ví như, có con bò cứ nằm chình ình trên đường phố, bảo thế nào cũng không đi nhưng khi lên tiếng dọa nếu không đi sẽ cắt hộ khẩu thì nó co giò vọt chạy… Ai cũng thương cảm cho tôi nhưng tôi vốn là một đứa lì nên đã quyết để lại sau lưng thành phố tôi yêu với rất nhiều kỷ niệm và Nam tiến… Đến giờ, chiêm nghiệm lại, tôi vẫn chưa một lần hối tiếc về quyết định này. Tôi đã không được bước chân vào cổng trường Đại học như những bạn bè cùng trang lứa, nhưng bù lại, nhờ những trải nghiệm sống đã giúp tôi thấu thị được nhiều điều về lẽ đời, về tình người và hơn hết điều làm tôi cảm thấy hạnh phúc nhất là được dâng hiến phần đời thanh xuân đẹp nhất của mình.
Sau một thời gian được an dưỡng và huấn luyện ở ban B tại Hòa Bình, tôi cùng đồng đội ròng rã hơn tháng rưỡi trời mới vượt tuyến vào được miền Nam giữa mưa bom bão đạn. Càng vào sâu, càng ác liệt, B52 rải thảm hết đợt này đến đợt khác trên đường đi. Ngày nghỉ đêm đi, tôi hành quân qua những ngôi làng mà ở đó tuyệt nhiên không có lấy một ánh đèn, một tiếng chó sủa, một tiếng gà gáy. Không lạ sao? Những cảnh tượng này luôn ám ảnh tôi về sự ghê rợn và tàn khốc của cuộc chiến. Cũng có khi tôi bị vùi lấp cả người, vượt sông giữa mùa lũ bị đuối nước nhưng rồi lại thoát chết một cách thần kỳ và cuối cùng cũng đặt chân vào bờ Nam sông Bến Hải vào một đêm khuya giữa mùa trăng.
Tôi được phân công về bộ phận văn hóa do anh Hoàng Phủ và anh Nguyễn Phong thông tấn xã phụ trách. Đó là hai con người tính cách trái ngược nhưng rất thông tuệ, kiên định và tình cảm. Thấy tôi không ra dáng dân lao động, các anh đã phân công tôi trực tổng đài vừa hướng dẫn tôi tập viết các bản tin ngắn. Một hôm, anh Hoàng Phủ đường đột gọi tôi lên và bảo: Em giúp anh dạy học cho các anh chị trong đơn vị nhé. Lời đề nghị bất ngờ làm tôi ngơ ngác: Dạy ai? Ồ không, em chưa bao giờ đi dạy, nhà em cũng không có ai đi dạy mà dạy ở đây thì lớp ở đâu, bút ở đâu, giấy ở đâu… Tôi tuôn ra một tràng những câu hỏi ngạc nhiên nhưng anh vẫn ôn tồn tiếp: Ở đây có một số anh em tội lắm em à, đánh giặc thì rất giỏi nhưng có người còn chưa biết chữ, chưa bao giờ được đi học. Em cứ mạnh dạn làm đi, anh sẽ hướng dẫn. Còn giấy bút để anh sang nhà in quân khu xin cho. Tôi chẳng biết nói gì nữa chỉ im lặng thuận theo.
Thế là lớp học được hình thành. Nơi lán dùng để làm bếp ăn của đơn vị được chọn làm chỗ dạy. Bàn ghế toàn làm bằng tre nứa lồ ô. Lán được dựng nửa nổi nửa chìm, ngụp sâu trong thảm cỏ tranh. Chỗ đơn vị tôi đóng ở chỉ toàn cỏ tranh ngút ngàn. Có khi các lán chỉ ở cách nhau vài trăm mét mà phải đi cả tiếng đồng hồ mới đến được; khi đi, tay phải khỏa tranh để tìm lối. Cái động tác này làm tôi liên tưởng đến những hình ảnh dễ thương trong thơ Trần Nhật Thu: Em đi như bơi trong tranh. Lá sắc cứa tay con gái. Chẳng nhận ra làng ra bãi. Nàng nàng đỏ lối em qua. Sau khi ăn trưa xong, mọi người dọn dẹp và ở lại tranh thủ học. Sợ tôi chưa có kinh nghiệm, hôm nào anh Hoàng Phủ cũng nán lại ngồi phía sau tấm màn che nghe tôi dạy, xong buổi lại góp ý cho tôi. Anh bảo trước khi lên rừng anh cũng đã từng làm nghề dạy học tại một đô thị ở miền Nam, giờ vẫn mong ước ngày đất nước bình yên sẽ được trở lại nghề cũ.
Lớp học của tôi khoảng mười mấy người, nội dung dạy cũng rất đặc biệt, ai thích gì học nấy, chủ yếu là đọc, viết và tính toán. Nhìn những khuôn mặt đen sạm vì nắng gió, vì cuộc chiến, giờ ngồi đây ngây ngô đánh vần từng con chữ, miệng cứ hết méo lại tròn theo từng nét viết trông vừa buồn cười vừa thương cảm. Sự ham học của các anh chị học viên đã truyền cảm hứng cho tôi rất nhiều. Tôi bắt đầu cảm thấy thích với công việc mới mẻ này và luôn cố gắng để có thể giúp được những gì tốt nhất cho họ. Điều thú vị là sau những ngày mở lớp, tôi tự nhiên được các anh chị trong đơn vị cưng chiều thái quá. Khi đi cùi gạo, lấy củi hay bất cứ công việc gì nặng nhọc tôi đều được có người giành phần làm giúp. Đi đâu về họ đều có quà cho tôi, khi thì vài quả lê ki ma nếu họ về xuôi cùi thực phẩm; còn khi đi rừng về, họ tặng tôi hạt dẻ, quả bứa. Họ bảo: Út không phải làm, chỉ cần Út giữ sức khỏe để dạy học thôi! Mỗi khi nhận được thư nhà hay tự viết được bức thư gửi người thân, họ đều đọc cho tôi nghe. Sự tin cậy của mọi người làm tôi cũng buồn vui theo. Đêm nằm, chợt nghĩ, chao ôi sao lại có một công việc dễ thương chi lạ ri hè. Không ngờ những việc bình thường của mình lại đem lại nhiều niềm vui cho các anh chị như thế. Và rồi, tình yêu với nghề giáo đến với tôi lúc nào không hay. Có lần, vào những ngày hiệp định Paris được ký kết, tôi được lệnh theo trưởng ban tuyên huấn vượt sông sang bờ Bắc để ghi chép một số nội dung của hiệp định. Tôi lo việc học của các anh chị sẽ bị gián đoạn, nhưng sau mười ngày trở về, chưa kịp hỏi thăm các anh trong đơn vị đã khoe: Út đừng lo, Út đi nhưng mấy hôm ni anh Hoàng Phủ đã dạy cho tụi tui rồi. Tôi cảm động quá! Thế mà gặp anh lại chẳng nói gì về chuyện đó cả. Tôi thầm cảm ơn anh rất nhiều. Và cứ thế, ý niệm về nghề giáo lớn dần trong nó. Tôi thầm nghĩ sau này thống nhất tôi nhất định sẽ là một cô giáo.
Cuộc đời lại có những ngã rẽ mà không ai có thể sắp đặt được. Tôi bất ngờ được chuyển sang bộ phận viết tin bài. Được các bậc tiền bối hướng dẫn, tôi khá thích nghi và nhạy bén với công việc mới. Tôi trở thành phóng viên từ ngày đó. Đó cũng là một nghề mới của tôi! Trong những tháng ngày đó, tôi đã vinh dự được cử đi cùng với trưởng ban phóng viên làm chương trình tường thuật Đại hội Anh hùng dũng sĩ 18 năm chống Mỹ toàn miền Nam tại Cồn Tiên Quảng Trị. Ở đó, tôi lần đầu được gặp các vị lãnh đạo tối cao của quân giải phóng như luật sư Nguyễn Hữu Thọ, Bộ trưởng Nguyễn Thị Bình…, được nghe các báo cáo, được gặp gỡ những con người phi thường nhưng cũng rất đỗi bình thường chân chất làm tôi vô cùng cảm phục... Và cứ thế công việc của một phóng viên cứ cuốn lấy tôi và tưởng như tôi đã quên đi ước mơ trở thành cô giáo ngày nào…
Hòa bình, tôi được phân công làm biên tập viên tại Đài phát thanh tỉnh. Cơ quan cử tôi đi thi để học tại khoa Báo chí Tuyên huấn Trung ương tại Hà Nội nhưng đành lỡ hẹn vì tôi vừa mới sinh con được vài tháng không thể đi xa được. Vừa may, cũng vào dịp đó, Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Huế mở khóa tuyển sinh đầu sau ngày giải phóng, tôi đã gần như ngay lập tức nộp hồ sơ thi tuyển. Sau bốn năm, tôi tốt nghiệp và dự tính sẽ trở lại Đài làm việc. Nhưng một lần nữa duyên nghiệp với nghề đã dẫn dắt tôi rẽ lối. Tôi sinh con thứ hai, chồng lại đi học xa; những khó khăn ập đến. Một người bạn thân ở phòng Giáo dục thành phố đã khuyên tôi nên đi dạy để có thời gian chăm sóc con. Anh nhiệt tình bố trí cho tôi về làm giáo viên tại một ngôi trường gần nhà nhất có thể để tiện đi lại. Những tưởng như thế cũng tạm ổn nhưng khi bước chân vào nghề dạy tôi bị sốc vì những khó khăn dồn dập đến bởi những mối quan hệ và cuộc sống mưu sinh. Thời kỳ này, nhiều giáo viên đã không thể chịu đựng được đành bỏ nghề tìm một công việc khác có thu nhập khá hơn. Cạnh nhà tôi có cô giáo vì anh rể là quan chức nên đã được chuyển sang bán cửa hàng thực phẩm tươi sống. Trưa nào, từ cái cửa sổ nhà bếp của họ mở sang hướng vườn tôi một mùi thơm được bốc lên từ cái chảo mỡ lênh láng làm tôi chỉ biết nuốt nước bọt trong nỗi thèm khát, ước gì có một thìa mỡ thôi để chiên xào cho bọn trẻ. Cơm chúng tôi ăn đủ thứ độn vẫn không đủ no. Con tôi ngoài sữa mẹ không biết đến một loại sữa nào khác. Tôi mơ hồ liên tưởng đến thân phận mình như loài cỏ dại; những bước chân buồn đến trường bỗng dài ra chững lại, nặng nề, ý nghĩ từ bỏ nghề giáo cũng bắt đầu len lỏi trong tôi.
Nhưng thật kỳ lạ! Cứ mỗi lần như vậy là bất chợt tôi lại nhớ đến lớp học ngày xưa ở chiến trường B ấy. Sự hồi tưởng về những ngày mà mình đã sống làm tôi bình tâm, quên hết nỗi nhọc nhằn để bước tiếp với nghề. Khi con tim không còn xao xác, tôi không còn tơ tưởng đến công việc nào khác nữa. Bỏ lại sau lưng những buồn lo của cuộc sống, tôi toàn tâm toàn ý với nghề với một niềm say mê khó lý giải. Cứ đứng trên bục giảng là tôi gần như quên hết mọi nỗi lo toan phiền muộn của cơm áo gạo tiền và cứ thế say sưa dạy như cuộc đời chỉ toàn những hoa hồng. Chính trong những thời khắc khó khăn nhất đó tôi lại gặt hái được nhiều thành công. Tôi được mời đi dạy khai mạc cho các hội nghị thay sách toàn quốc tại Hà Nội, Sài Gòn; được thành phố và các tỉnh mời dạy trong các đợt tập huấn cho giáo viên. Ngẫm lại, tôi nghiệm ra, sự thành công của mình không chỉ có được từ sách vở mà chính là những trải nghiệm trong những năm tháng ở chiến trường cùng với tình yêu, lòng say mê đối với công việc đã hình thành phẩm chất và năng lượng đột phá giúp tôi thành công.
Giờ, tôi đã là giảng viên của một trường Đại học, ngày ngày đứng trên bục giảng để góp phần đào tạo các thế hệ trẻ biết sống tự chủ, trách nhiệm và có kỹ năng làm việc chuyên nghiệp tại một trong những ngôi trường uy tín đẹp nhất Huế, nằm thơ mộng bên dòng Hương giang. Nhưng dù vậy, tôi cũng sẽ không bao giờ có thể quên được lớp học ân tình ngày ấy, những buổi dạy học đầu tiên của ngày xưa ấy mà cho đến bây giờ hồi tưởng lại trong tôi vẫn ngập tràn cảm xúc của lòng biết ơn và một niềm vui rưng rưng ở khóe mắt.
Giờ thi thoảng nhớ lại tôi vẫn vu vơ tự hỏi, không biết tôi đã chọn nghề hay nghề đã chọn tôi? Đó vẫn còn là một bí ẩn ngay cả với chính tôi và tôi cũng không có ý định giải mã. Thôi, hãy để tất cả thuận theo tự nhiên như là một duyên nghiệp tốt lành!
Huế, những ngày bão Noul
H.N
(TCSH381/11-2020)
NGUYÊN QUÂNTôi đứng lại giữa vườn. Đêm mênh mông oà vỡ ánh trăng. Trăng trên thềm nhà, trăng trên ngọn lá, trên những tàng cây um tùm. “Điêu tàn, hoang vắng quá”- tôi than thầm. Hình như lâu rồi chẳng ai vun xới chăm sóc và hình như cũng lâu lắm rồi tôi mới về lại trong khu vườn đầy kỷ niệm này.
NGUYỄN NGỌC PHÚQuán rượu của o Tam lúc nào cũng đông khách, phần lớn là khách quen. Quán ở gần bến, thuyền câu về cập bờ chỉ nhảy ba bước đã có thể cụng bát với nhau rồi.
NHẤT LÂMKhông biết duyên cớ từ đâu mà cô Ngọc ở Hà Nội chạy lên Thái Nguyên rồi dừng chân dưới chân đèo Nhe mở quán qua ngày.
NGUYỄN NGỌC LỢI Từ đường phố chính, lối rẽ chếch trái nghiêng thoai thoải. Đoạn đường tráng nhựa được xẻ xuống giữa hai bờ đất. Phía trên, không cao lắm là những biệt thự, những kiểu dáng kiến trúc lạ mắt. Trước mỗi ngôi nhà là những khoảng sân có bồn hoa, bồn tiểu cảnh và cơ man nào là các dò lan đua nhau khoe sắc.
TRẦN HẠ THÁP1/ Trong một lần lên Tây nguyên đã lâu... Câu chuyện dọc đường vẫn làm tôi thao thức mãi. Đấy là lần xe hỏng. Lùi lại Quy Nhơn hoặc tiến tới thị xã Plây Ku đều phải mất nhiều tiếng đồng hồ. Bấy giờ, chỉ mới tắt mặt trời nhưng không hy vọng tiếp tục cuộc hành trình. Mọi hành khách đành phải qua đêm ở lưng chừng đèo An Khê...
NGUYỄN XUÂN HOÀNGĐêm dường như đã xuống từ lâu lắm. Chỉ nghe lao xao tiếng nước suối chảy như một khúc đàn cầm. Nguyễn ngồi một mình trong thư phòng. Đôi cánh tay dài quá gối để hờ hững lên thành ghế tựa được làm từ mây rừng Côn Sơn. Ông hướng đôi mắt sâu thẳm nhìn xoáy vào bóng rừng chập chùng một màu đen nhức mắt. Xa lắc trên cao vầng trăng thượng huyền nhỏ và mỏng như một nét mày duyên nợ.
VÕ THỊ XUÂN HÀTặng cậu tôiTập truyện thứ X bộ truyện "Những trang viết lạ" vừa phát hành, nhiều người đã gọi điện đến hỏi, cái truyện ngắn "Chuốc mấy nậm trường" moi ở đâu ra vậy? Tác giả Trần Sao là ai vậy? Nghe chừng có vẻ là tay viết trẻ mới xuất hiện? Hay thằng cha nhà văn nào chán đời núp bóng tên con để xả sú?
HOÀNG NHẬT TUYÊN(Chùm truyện ngắn mini)
PHẠM XUÂN PHỤNG(Tặng Hoạ sĩ Trần Hữu Nhật)Hắn là một hoạ sĩ.Gay cấn hơn, hắn còn là một hoạ sĩ trẻ!
XUÂN ĐÀIChúng tôi làm việc cho ông Gofhua-Marino đến nay đã là 12 năm 3 tháng. Ông người Mỹ này tuyển người không giống ai. Quảng cáo vỏn vẹn có mấy dòng trên báo: Cần hai chuyên viên giúp việc, tuổi từ bốn lăm đến năm lăm, viết và nói tiếng Anh, tiếng Pháp, thông thạo...
HƯƠNG LAN(Tặng mẹ)Mẹ tôi mất trong một lần sinh khó. Mấy tháng sau, đứa em gái bất hạnh của tôi cũng không sống nổi vì thiếu sữa mẹ. Năm ấy tôi mới được sáu tuổi. Rồi thầy tôi (tôi gọi cha bằng thầy) đi thêm bước nữa. Cũng như những phụ nữ muộn chồng khác, người mẹ kế của tôi tính tình luôn cau có khó chịu, hình như đó là tâm lý chung của họ.
NGUYỄN TRƯỜNGMưa. Màn mưa giăng giăng trắng đục cả bầu trời. Mưa dầm dề suốt tháng không có lấy một ngày tạnh ráo.Trong ngôi nhà gỗ ba gian tối tăm ẩm ướt những giọt nước mưa từ nóc cứ men theo đám rui mèn đã rũ mục rơi tí tách xuống nền nhà thành từng đám loang lổ nom đến chối mắt.
NGUYỄN KHẮC PHÊSân ga ngày giáp Tết đông đúc và huyên náo khác thường. “Tàu S3 xin đường rồi!” Tiếng ai đó thốt lên. Thế là đám người trên sân ga như được tiêm thuốc kích thích. Trước hết là các chàng xe thồ, xích lô, rồi người đưa kẻ đón chạy qua chạy lại, í ới gọi nhau.
NGUYỄN THỊ LÊ NA Chiếc Suzuki chồm lên trên con dốc ngoằn nghoèo ghồ ghề đất đá. Người đàn ông cố giữ lấy tay lái dù vậy vẫn không tránh khỏi quệt vào đám cây cỏ dại ven đường. Xe chạy chậm dần và dừng hẳn trước ngôi nhà tranh thấp lè tè nép bên ngọn đồi heo hút. Người đàn ông khoác chiếc túi xách căng phồng rồi đi thẳng vào nhà vừa lúc ánh chiều sắp tắt.
VIỆT HÙNGChuyện ghen tuông của phụ nữ ư? Có gì lạ đâu nhỉ? Vậy mà lúc nào cũng có thể trở nên những câu chuyện thời sự nóng hổi. Người ta túm năm tụm bảy; người ta quên ăn quên uống, quên cả công việc, nhiều khi cũng chỉ để ngồi mạn đàm tào lao quanh chuyện ghen bóng gió của ả A hoặc ả B nào đó.
NGUYÊN QUÂN Chiếc roi mây lên nước thời gian bóng loáng, vẫn im lìm trên vách tường ố vàng màu vôi cũ. Chính sự im lìm của nó đã vô tình làm hằn lên số phận tôi một chuỗi dài bấp bênh cay đắng... Thầy ơi! nếu ngày xưa thầy cứ nhẫn tâm quất xuống, dù chỉ một roi thôi thì giờ đây cuộc đời đâu thể quất lên người con lắm vết đau xé bầm tím...
DƯƠNG QUYẾNHuệ là một hoa khôi. Đài các, cao sang, quí tộc, tài năng, giàu có và hoang dã. Đó là nét đẹp trời sinh ban phát cho nàng.Huệ học rộng, đủ chất "cầm kỳ thi họa". Bốn môn cổ xưa ấy, môn nào Huệ cũng xuất sắc. Cô đỗ hai bằng đại học sử học, vi tính. Ngoài ra, cô còn đoạt luôn một bằng tiếng Anh tại Anh Quốc.
VŨ QUỲNH HƯƠNGLGT: Vũ Quỳnh Hương, tên thật là Nguyễn Vũ Quỳnh Hương, sinh năm 1957 tại Huế, hiện sống và làm việc tại San Jose, California (Hoa kỳ), đã có nhiều sáng tác thơ, văn trên các tạp chí Văn, Văn học và nhiều tuyển tập thơ văn ở hải ngoại. Tiêu biểu trong số đó là CUNG THỨC CÙNG THƠ MỘNG (thơ, in chung với Trân Sa, Lê Thị Huệ), MIỀN VĨNH PHÚC (truyện vừa)...
TRẦN THÙY MAIChúng tôi đến bản Tok, trời đã quá trưa. Người bản làm nương chưa về.. Dưới giàn bí, cô gái bản nằm ngủ hồn nhiên trên chiếc võng.
HỒNG NHU1.Ở độ cao ngọn núi trên một nghìn mét này, trong rừng sâu có lẽ chưa ai bước chân tới, dưới gốc một cây trâm già to cỡ hai người ôm tỏa bóng vòm hình thang chéo mỗi khi mặt trời chiếu thẳng góc, có một túp lều nhỏ lợp bằng tranh săng đã cũ trông như một cái nơm úp chụp xuống đất.