Các hoàng đế nước Việt xưa phần lớn giỏi chữ Hán, biết thơ văn, triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đời nào cũng có các tác phẩm ngự chế quý giá. Nhưng tất cả các tác phẩm ấy đều nằm trong quỹ đạo Nho Giáo, dùng chữ Hán và chữ Nôm để diễn đạt cảm xúc về tư tưởng của mình.
Vua Duy Tân
Ông học chữ Pháp, làm thơ, viết văn Pháp... Thơ văn của ông không nhiều, lại bị người Pháp ngăn cấm phổ biến cho nên ít người được đọc. Nhưng những ai được đọc thơ văn của ông đều thấy ông vua yêu nước có tinh thần chống Tây Duy Tân rất giỏi văn Tây.
Trong bài báo mang tựa đề “Duy Tân”, nữ ký giả Revest viết trên một nhật báo ở Réunion ngay sau khi vua Duy Tân bị tử nạn máy bay (12.1945) rằng: “Ngài tháo ráp một máy vô tuyến cũng dễ dàng như đọc một bài diễn văn với một ngôn ngữ tuyệt hảo, để trình bày nguyên tắc của môn khoa học mà Người đam mê”.
Trong bài “Số phận bi thảm của một hoàng đế nước Nam: Vĩnh San Duy Tân”, ông E.P.Thébault có nhận xét: “Người am tường hoàn toàn ngôn ngữ Pháp và người đã để lại cho chúng ta những bức thơ có lối hành văn rất trang nhã”.
Vua Duy Tân biết yêu lúc ông mới 15 tuổi. Người yêu đầu đời của ông là bà Mai Thị Vàng - con gái của cụ Mai Khắc Đôn. Ông đã làm thơ tặng người yêu. Sau nầy có dịp gặp bà Mai Thị Vàng ở Hậu thôn Kim Long, tôi được nghe bà xác nhận việc đó nhưng rất tiếc vì thơ vua Duy Tân viết bằng tiếng Pháp nên bà không thuộc. Bà cũng cho biết sau khi vua Duy Tân bị bắt và bị đày sang đảo Réunion (1916), toàn bộ sách vở chép thơ văn của nhà vua đều bị thực dân Pháp thu giữ.
Mới đây người ta đã tìm thấy trong kho lưu trữ của Pháp - DOM (Aix), GOUGAL, Dossier 9588/57, còn một bài thơ mà vua Duy Tân sáng tác để tặng bà Vương phi Mai Thị Vàng như sau:
À ma chère bien aimée
...Et j’ écartais sur la fenêtre des anges,
Et je te regardais dormir sur les langes
J’ effeuillais des jasmins et des oeillets sans bruit
et je priais, veillant sur tes paupières closes,
et mes yeux se mouillaient de pleurs
songeant au choses
qui nous attendent dans la nuit.
Duy Tan
Bài dịch thơ:
Tặng người yêu dấu
Vén cánh cửa diệu kỳ
Ta ngắm nhìn em ngủ
Nằm trên làn chăn vải
Không một tiếng động hờ
Ta ngắt những đóa nhài
Và những đóa cẩm chướng
Ta canh chừng bên em
Với đôi mi khép kín
Ta lặng lẽ nguyện cầu
Bỗng mắt ta nhòe lệ
Và nghĩ tới những điều
Chờ hai ta đêm nay
(Xuân Huy dịch)
Ông vua nhìn người đẹp ngủ mà cảm xúc đến mắt nhoà lệ thì thật quá đặc biệt.
Đó là thơ tình nhà vua làm tặng người yêu. Đối với cuộc sống chung quanh, vua Duy Tân cũng có những cảm xúc rất mãnh liệt. Một đêm đi thuyền trên sông Hương, nhà vua viết bài Nocturne sur la rivière des Parfums (Đi đêm trên sông Hương)[1].
“La barque obéit, endormie
aux coup réguliers du rameur
Mon âme tressaille, meurtrie,
aux coups de la vie dans mon coeur...”
(Chiếc thuyền êm giấc vẫn vâng theo
Nhịp đập đều đều của mái chèo
Hồn ta giật nẩy, tim khô héo
Bởi lẽ đời ta bị lắm keo...)
Đọc bài thơ này nhà nghiên cứu Pháp Pièrre Brocheux cho rằng đây là tâm trạng của vua Duy Tân lúc ban đầu, nhưng dần dần tâm trạng đó đuợc nâng lên và có mầu sắc chính trị rõ rệt. Cũng theo theo Pièrre Brocheux, mật thám Pháp đã thu được nhiều bài thơ yêu nước của vua Duy Tân và những bài thơ đó đang được giữ ở Hồ sơ lưu trữ quốc gia, bộ phận Hải ngoại, FOM, 858/2326. Brocheux đã trích dẫn những câu điển hình như sau:
“Les Français se sont implantés ici depuis
plusieurs automnes
L’Odeur de ces barbares sent de plus en plus
mauvais.
(...)
Le père et le fils ont subit de même sort.
(...)
Pitié pour ces héros qui ont bravé
les flèches et les canons qui n’ont pas craint
les balles et l’épée.
Malheur à ces sujets qui-à maintes reprises -
ont trahi leur pays
Afin d’avoir des bonnets d’or et des
plaquettes d’argent”
Tạm dịch:
“Từ nhiều mùa thu qua, người Pháp đã cắm
chân ở nơi đây
Những tên man rợ này càng bốc lên mùi hôi thối.
(...)
Cả cha và con đều cùng chịu một số phận
(...)
Tội nghiệp cho những vị anh hùng nầy đã
xông pha đầu tên mũi súng.
Họ chẳng biết sợ hòn đạn hay lưỡi kiếm.
(...)
Hổ thay cho những thần dân kia nhiều lần
đã phản bội đất nuớc,
Cốt đoạt cho được chiếc mũ vàng và chiếc
bài bằng bạc”.
Trong những ngày bị lưu đày ở đảo Réunion, để chứng tỏ người Việt Nam không thua chi người Pháp, vua Duy Tân đã cố gắng rèn luyện học tập Pháp ngữ. Ông tỏ ra đã thành công trong lĩnh vực nầy. Người ta đã mời ông tham gia vào những tổ chức văn học sáng giá nhất ở Réunion. Vua Duy Tân đã diễn tả tâm trạng u uất của mình qua nhiều tác phẩm được người đương thời hết lời ca ngợi. Xin trích một đoạn mà nhiều độc giả học tiếng Pháp trước đây đã thuộc lòng:
CE QUE DIT LA VOIX DES CHOSES
J’aime la murmure de la brise, quand elle chante ou pleure dans les branches. J’aime les confidences harmonieuses du vent aux arbres de la forêt, aux vagues de la mer, aux étoiles du firmament. Mais plus encore ce qui me berce, me ravit, m’enchante, c’est la grand de voix de l’Océan, la plainte universelle qui retentit dans le silence de la nuit comme un hymme sans fin. Lorsqu’au coeur de l’été, je séjourne aux bords des plages, je me plais à écouter dans l’insommie les variations de cette grand voix. Dans les nuit paisibles, on dirait la respiration d’un l’éviathan endormi à d’autres heures, la voix s’enfle, gronde, devient menasante dans le fracas de la tempête.
Bửu Ý chuyển qua Việt ngữ:
"Ta yêu tiếng nói thì thào của cơn gió thoảng, khi gió reo ca hay than thở trên cành. Ta yêu lời tâm sự du dương của gió ngỏ với cây rừng, với sóng biển, với sao trời. Nhưng, hơn thế nữa, cái dỗ dành ta, khiến ta ngây ngất hân hoan, chính là tiếng nói của Đại dương, tiếng rền rĩ của khắp cõi vọng lên trong cảnh vắng lặng đêm khuya như khúc ca bất tuyệt. Giữa lòng mùa hè, những lúc nghỉ chân bên bãi biển, trong cơn trằn trọc, ta ưa thích nghe ra những tiếng trầm bổng của âm thanh hùng vĩ kia. Trong đêm thanh vắng, tưởng chừng như hơi thở của con quái vật khổng lồ ngủ say; vào giờ giấc khác, âm thanh trổi dậy, gào thét, hóa thành dọa nạt trong bão gầm".
Ngoài những sáng tác văn học, vua Duy Tân còn có những bài viết về chính trị nhưng có giá trị văn học. Cho đến nay người ta đã được đọc những bài viết sau đây của Duy Tân:
-Thư gửi thầy phụ đạo Éberhard (1916),
- Thư gửi cho báo Nhân Đạo (1920),
-Thư gửi cho bộ trưởng thuộc địa (1936),
-Bài đọc trên đài phát thanh Brazzaville (6-1945),
-Di chúc chính trị (12-1945)... Xin trích một đoạn trong bài đọc trên đài phát thanh Brazzaville:
- “Convenez-vous un peu, qu’avant le coucher du soleil, un oiseau noir, vous savez ce lui qui annonce une visite, est venu crier sur une branche de bambou jaune qui est devant votre fenêtre. Vous vous êtes demandés qui devait venir? Eh bien! C’est le premier fois, depuis longtemps, que je vous parle, et si ma voix n’est pas claire, c’est qu’elle est voilée de toute la tendresse que vous avons les un pour les autres.”
Thái Văn Kiểm chuyển qua Việt ngữ:
"Các ngươi hãy nhận rằng trước khi mặt trời lặn, một con chim đen, ai cũng biết là con chim khách, đến kêu trước song cửa sổ nhà các ngươi ở, rồi các ngươi tự hỏi không biết khách nào sẽ đến vậy. Thì đây chính là ta đó, người lão thành này đã từng suy nghĩ giúp các người. Từ lâu, từ lâu lắm nay là lần đầu tiên ta mới lại nói chuyện cùng các người, nếu cái giọng ta không được trong lắm, chính vì nó đã đượm tình thân ái sắc son của chúng ta đối với nhau”.
Vua Duy Tân giỏi tiếng Pháp. Không những ông sử dụng vốn liếng tiếng Pháp đó để trang bị kiến thức chờ ngày đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn dùng để làm thơ viết văn thể hiện sự rung động của trái tim mình trước cuộc đời. Với những thơ văn còn lại ít ỏi của ông không đủ để Lịch sử văn học Việt Nam xem ông là một cây bút Francophone. Nhưng với những vần thơ câu văn trào ra từ một tâm hồn nóng bỏng ấy, cộng với cuộc đời không cam chịu làm nô lệ và hành động khởi nghĩa chống Pháp năm 1916 của ông, cho phép người chép sử dân tộc khẳng định: Duy Tân là một ông vua thông minh, khát khao đổi mới và có tình yêu nước nồng nàn.
Thơ văn của vua Duy Tân giúp cho người đọc Việt Nam quý trọng tinh thần yêu nước của ông hơn.
(Nhân kỷ niệm 100 năm sinh ( 1900-2000) và 55 năm mất của vua Duy Tân (1945-2000))
Theo khamphahue.com.vn
Sáng ngày 9/1, Liên hiệp Các hội Văn học Nghệ thuật, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, gia tộc họ Phùng, văn nghệ sỹ, trí thức và những người yêu mến đã tổ chức đưa di hài nhà thơ Phùng Quán và vợ là nhà giáo Vũ Thị Bội Trâm về an táng tại nghĩa trang Thanh Thủy Thượng, phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, Thừa Thiên Huế theo di nguyện của nhà thơ.
Chiều ngày 06/01/2011, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức họp báo thường kỳ và gặp mặt cơ quan báo chí nhân dịp đầu năm mới 2011 nhằm thông báo tình hình kinh tế xã hội năm 2010, nhiệm vụ kế hoạch 2011 và các hoạt động chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, kỷ niệm 81 năm Ngày thành lập Đảng và đón Tết nguyên đán Tân Mão.
Vừa qua, vào lúc 11 giờ 30 phút, ngày 29/12/2010, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế đã nhận được số tiền 10 triệu đồng của Quỹ Tình Thơ thành phố Hồ Chí Minh trao tặng nhà thơ Ngô Cang (bị ngã xe chấn thương sọ não vào chiều ngày 24/12, khi anh đang trên đường từ Huế trở về nhà - làng Mỹ Xá, xã Quảng An, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế) do nhà thơ Nguyễn Miên Thảo và nhà thơ Phan Trung Thành gửi từ thành phố Hồ Chí Minh.
Sáng ngày 29/12, tại Thế Tổ Miếu- Hiển Lâm Các, Đại Nội - Huế, đã diễn ra buổi Lễ trao tặng bộ Biên chung, Biên khánh- nhạc khí của Nhã nhạc Việt Nam do Trung tâm Nghiên cứu Nghệ thuật Biểu diễn Quốc gia Hàn Quốc phục chế và trao tặng Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố Đô Huế.
Ngày 28.12, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Thừa Thiên - Huế đã trao “Tặng thưởng tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật xuất sắc năm 2010” cho 14 tác giả, nhóm tác giả là hội viên các hội chuyên ngành.
Sáng ngày 22/12, Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức Lễ công bố và trao bằng di tích lịch sử cách mạng địa điểm “Trường Thanh niên tiền tuyến Huế 1945” tại di tích trường (hiện nay là Trung tâm Công viên cây xanh), 108 Lê Duẩn, thành phố Huế.
"Báu vật sống" của nhã nhạc cung đình Huế - Nghệ sĩ Ưu tú, Nghệ nhân Dân gian Trần Kích đã trút hơi thở cuối cùng vào lúc 4 giờ ngày 18/12, tại nhà riêng số 34/4 kiệt 320 đường Bạch Đằng, thành phố Huế.
Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam vừa có thông báo công bố giải thưởng tiểu thuyết Hội Nhà văn Việt Nam (2006-2009).
Tối ngày 14/12,Hội Liên hiệp VHNT Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Huế và Hội Nhà văn tỉnh đã tổ chức đêm thơ Thanh Hải, nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất của ông.
Ủy ban toàn quốc Liên hiệp các Hội VHNT vừa có thông báo về việc trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật thường niên 2010. Trong đợt xét tặng giả thưởng thường niên này, các văn nghệ sĩ Thừa Thiên Huế đã có một mùa bội thu giải thưởng với 6 tác giả, nhóm tác giả được trao thưởng.
Kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam (20-12-1960 - 20-12-2010), chiều 14/12/2010, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế và Tạp chí Sông Hương đã phối hợp tổ chức buổi giới thiệu sách “Nhánh tùng vườn An Hiên”.
Ngày 14/12/20120 tại trụ sở Tạp chí Sông Hương, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với tạp chí Sông Hương đã tổ chức cuộc giao lưu giữa các nhà thơ, nhà văn của Hội Nhà văn tỉnh với nhà thơ, giáo sư Bruce Weigl.
Tối 11/12, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Tỉnh ủy, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức Đêm thơ “Quê mẹ” nhâ kỷ niệm 90 năm ngày sinh (1920 - 2010) và 9 năm ngày mất (2002-2010) của nhà thơ Tố Hữu, chương trình diễn ra tại Trung tâm Văn hóa thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế.
Chào mừng 59 năm ngày truyền thống Mỹ thuật Việt Nam và 53 năm ngày thành lập Hội Mỹ thuật Việt Nam, chiều ngày 10/12/2010, tại Khu làng nghề truyền thống Huế, Hội Liên hiệp VHNT Thừa Thiên Huế, Chi hội Mỹ thuật và Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã tổ chức khai mạc triển lãm Mỹ thuật 2010.
Sáng ngày 10/12, Ban Chỉ đạo Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” tỉnh Thừa Thiên Huế đã tổ chức Hội nghị tổng kết 4 năm thực hiện Cuộc vận động.
Kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với Tạp chí Sông Hương tổ chức đêm thơ nhà giáo với chủ đề “ Cõi hạnh phúc”, diễn ra vào tối ngày 19/11 tại 26 Lê Lợi, Huế.
Chiều ngày 14/11, tại trụ sở Hội Liên hiệp VHNT Thừa Thiên Huế, Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với Tạp chí Sông Hương tổ chức buổi tọa đàm với chủ đề “Văn hóa và văn học Pháp đương đại” do Giáo sư, dịch giả Trần Thiện Đạo trình bày.
Nhân kỷ niệm 93 năm Cách Mạng Tháng Mười Nga vĩ đại (1917-2010), Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế phối hợp với khoa Nga văn trường Đại học Ngoại ngữ Huế tổ chức đêm thơ “Nước Nga thân thiết của tôi ơi...”, diễn ra vào tối ngày 7/11, tại Thư viện tỉnh Thừa Thiên Huế.
Sáng ngày 23/10, Đại hội chính thức Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế lần thứ XI, nhiệm kỳ 2010- 2015 đã diễn ra đúng vào dịp Hội tròn 60 tuổi.
Sáng ngày 19/10, Tạp chí Sông Hương đã tổ chức Lễ trao giải Cuộc thi truyện ngắn dành cho sinh viên Huế năm 2009- 2010, diễn ra tại tòa soạn Tạp chí, số 9 Phạm Hồng Thái, Huế.