Mấy thế kỷ sau, Phú Xuân trải dài mấy trăm năm là kinh đô Chúa Nguyễn, Tây Sơn, các vua Nhà Nguyễn. Cách mạng Tháng Tám chỉ thành công trọn vẹn khi tại Ngọ Môn, vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam thoái vị, trao lại ấn kiếm cho chính quyền cách mạng. Phong trào sinh viên học sinh đô thị miền Nam, phong trào Phật giáo yêu nước chống đế quốc Mỹ xâm lược ghi nhận sự khởi phát và cao trào ở Huế. Huế 1968. Huế 1975. Tất cả đều có dấu ấn rất riêng của Huế, với sứ mệnh lịch sử trước dân tộc cực kỳ lớn lao. Và bây giờ TT Huế đang xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương. Một thành phố có núi non bạt ngàn hùng vỹ nhất, có bờ biển dài nhất, có đầm phá lớn nhất Đông Nam Á, có nhiều sông suối nhất... Thành phố ấy cũng có một tiềm lực kinh tế, tri thức, văn hóa hết sức phong phú, tinh túy, chất lượng, là tiền đề cho sự phát triển bền vững. Trong những ngày này, TT Huế đang bám trục xoay cho mọi huy động tổng lực: xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương bằng chính thực lực của mình. Muốn vậy mỗi người dân, mỗi công dân Huế, cần biết rõ, cần xác định thời điểm này chúng ta đang ở đâu? chúng ta đang có những tồn tại, hạn chế nào? chúng ta sẽ làm gì để phát triển? Thời điểm 2010, TT Huế đang có những thành tựu phát triển thấy rõ. Lần đầu tiên từ khi chia tỉnh (1990) đến nay, toàn tỉnh hoàn thành 100% tất cả các chỉ tiêu đề ra, với 16/16 chỉ tiêu chủ yếu đạt và vượt kế hoạch. Tăng trưởng GDP đạt 12,5% (cao hơn 1,3% so 2009). Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 9.200 tỷ đồng, tăng 27%. Sản lượng lúa tăng 1,6%. Chúng ta đang có một cơ cấu kinh tế rất đẹp là dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp, trong đó dịch vụ đóng vai trò chủ đạo. Năm 2010 dịch vụ tăng 12%, công nghiệp xây dựng tăng 16,8%, nông lâm thủy sản tăng 1,5% song chúng ta vẫn xác định công nghiệp không là đặc thù của Thừa Thiên Huế. Chúng ta trở thành thành phố trực thuộc trung ương với cách đi riêng đó là phát triển du lịch - dịch vụ. Toàn tỉnh cũng tổ chức thực hiện quyết liệt Kết luận 48-KL/TW của Bộ Chính trị: hoàn thành Đề án Xây dựng và phát triển thành thành phố trực thuộc Trung ương; triển khai Đề án Phát triển kinh tế tổng hợp vùng đầm phá Tam Giang - Cầu Hai; hoàn thành việc thành lập thị xã Hương Thủy, thành lập thị trấn huyện lỵ Phú Đa; thành lập các đô thị động lực Hương Thủy, Hương Trà, Thuận An... Chúng ta đã có những thành tựu đột phá song so với các thành phố phát triển như TP HCM, Hà Nội, Đà Nẵng... chúng ta có những cái chưa bằng. Ví như năm 2010, thu nhập bình quân đầu người của TP Hồ Chí Minh là 2.800 USD, Hà Nội và Đà Nẵng hiện nay (trực thuộc Trung ương từ năm 1997, đến nay đã 14 năm) là 2000 USD/người/năm. Muốn đạt đến con số 2000 USD, TT Huế phải chờ thêm vài năm nữa (hiện tại là 1.150 USD/người/năm). Phải công nhận cái được của người khác, chúng ta mới theo đó mà phát triển, không thể tự thỏa mãn với những gì đã có. Những năm qua Thừa Thiên Huế có đột phá trong tổ chức, đào tạo nhân lực nhưng chưa đạt như mong muốn. Xem cái cách nhiều nơi tổ chức đào tạo tiến sỹ, thạc sỹ từ nguồn ngân sách địa phương thì TT Huế còn nhiều cái phải học hỏi. Báo cáo của UBND tỉnh năm 2010 cũng chỉ ra hạn chế này khi xác định: Nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế, thiếu đội ngũ chuyên gia lành nghề, đội ngũ cán bộ quản lý giỏi, công tác đào tạo nghề chưa gắn với nhu cầu thị trường lao động... TT Huế muốn xây dựng thành phố trực thuộc Trung ương, thì trước hết, phải có nguồn nhân lực ngang tầm, phải có những con người đầy sáng tạo và bản lĩnh, đầy trí tuệ và nhân văn, thừa khát vọng và cống hiến... Năm 2010 TT Huế đạt thu ngân sách 3.010 tỷ đồng, tăng 16,7% so năm 2009. Cuối nhiệm kỳ này, 2015, dự kiến sẽ thu ít nhất 6000 tỷ đồng (của giá trị thời điểm 2010), muốn vậy mỗi năm phải tăng 10%. Đó là việc có thể làm được trong tầm tay nếu căn cứ mức tăng trưởng GDP đạt 12,5% trong năm qua. Thậm chí nếu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương sớm, TT Huế sẽ đạt con số cao hơn thế. Mừng cái đạt được, song cũng trăn trở. Ví như nói chuyện hộ nghèo theo tiêu chí cũ của năm 2005 thì thời gian qua TT Huế giảm nghèo rất khá, nhưng nếu áp dụng tiêu chí mới thì sau một đêm, lại có con số nghèo tăng. Vì vậy cũng còn phải lo cho hộ cận nghèo...
Nhân đây, cũng nhắc đến chuyện còn một số tồn tại. Chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế TT Huế còn thấp so với yêu cầu. Tăng trưởng của TT Huế vẫn dựa vào phát triển theo chiều rộng, chưa có nhân tố đột phá để phát triển nhanh. Khó có thể hình dung là ở TT Huế, người dân cần cù lại có năng suất lao động xã hội thấp, nhưng đó là một thực tế. Năm 2009, năng suất lao động bình quân của TT Huế đạt 10,1 triệu đồng, chỉ bằng 93% so bình quân chung cả nước. Du lịch dịch vụ là một thế mạnh của Huế, nhưng đến nay vẫn chưa khai thác hết tiềm năng và lợi thế so sánh. Không có nơi nào các điểm du lịch nhiều như Huế, nhưng Huế vẫn không níu kéo được bước chân du khách. Môi trường kinh doanh du lịch còn nhiều bất cập, sản phẩm du lịch còn đơn điệu, cũ mòn và không sáng tạo, các dịch vụ vui chơi giải trí, khu mua sắm, khu ẩm thực... chưa đáp ứng nhu cầu du khách... Tất cả khiến việc thu hút thời gian lưu trú, thu hút chi tiêu của khách gần như trì trệ suốt nhiều năm. Những yếu kém khác có thể liệt kê thêm ra đây: quản lý tài nguyên môi trường, quy hoạch sử dụng đất chưa theo kịp định hướng phát triển; sản xuất nông nghiệp chưa thật sự bền vững; kết cấu hạ tầng tuy đầu tư tăng cao song thiếu đồng bộ, tiến độ chậm; quy hoạch đô thị, quản lý đầu tư xây dựng còn nhiều bất cập; trật tự kỷ cương còn buông lỏng; chất lượng giáo dục còn khoảng cách lớn giữa các vùng... Đó là những yếu kém khiến chúng ta suy nghĩ. * Năm 2011 có ý nghĩa quan trọng trong thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011- 2015, thực hiện các mục tiêu đến 2020 và Kết luận 48-KL/TW của Bộ Chính trị về xây dựng, phát triển TT Huế và đô thị Huế đến năm 2020. Quan điểm phát triển của Tỉnh ủy năm 2011 là ưu tiên mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, trọng tâm là TP Huế, thị xã Hương Trà, thị trấn Thuận An. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, đồng bộ để hướng tới xây dựng TT Huế trở thành Thành phố cảnh quan, di sản, thân thiện với môi trường. Mục tiêu là đến năm 2014, TT Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương. Năm 2011 sẽ là năm tạo tiền đề cho mục tiêu lớn lao đó. Toàn tỉnh sẽ tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để huy động tối đa mọi nguồn lực cho đầu tư phát triển hạ tầng đô thị, xem đây là giải pháp bứt phá. Hoàn thiện quy hoạch mở rộng đô thị, tạo quỹ đất; sắp xếp lại các khu đất vàng; tạo điều kiện thuận lợi, khuyến khích thu hút vốn đầu tư... Hoàn thiện quy hoạch đô thị, tập trung đầu tư hạ tầng, nhất là giao thông, điện nước, viễn thông để kết nối đô thị hạt nhân Huế với các đô thị Hương Thủy, Hương Trà, Thuận An, Bình Điền... Khai thác tốt hơn các tiềm năng, thế mạnh và lợi thế so sánh của vùng đất văn hóa để nâng cao chất lượng, hiệu quả của ngành du lịch, dịch vụ: khuyến khích đa dạng hóa và nâng cao các loại hình dịch vụ, phát triển du lịch thành một ngành mũi nhọn với nhiều sản phẩm du lịch phong phú như du lịch văn hóa, du lịch cộng đồng, du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng biển và đầm phá. Toàn tỉnh cũng sẽ tiếp tục đẩy mạnh các giải pháp bảo đảm an sinh xã hội và xây dựng nông thôn mới... Trong tương lai, toàn tỉnh TT Huế là một thành phố phát triển bền vững, gắn giữa tăng trưởng kinh tế hợp lý với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển theo hướng thành phố xanh, thành phố công viên, thành phố cảnh quan, di sản... Tầm nhìn đến năm 2020, TT Huế sẽ trở thành một trong nhóm 20 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương đứng đầu cả nước, trở thành trung tâm kinh tế, văn hoá, y tế, đào tạo lớn của cả nước và khu vực. Huế sẽ là 1 trong 5 đô thị cấp quốc gia, khu vực và quốc tế; là trung tâm văn hóa, du lịch; trung tâm y tế chuyên sâu; trung tâm đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, chất lượng cao của miền Trung và cả nước. Mục tiêu được xác định đó vừa là niềm tự hào, đồng thời cũng là trách nhiệm hết sức nặng nề của TT Huế. Toàn tỉnh đang tập trung mọi nỗ lực thực hiện Kết luận số 48-KL/TW của Bộ Chính trị, sớm cụ thể hóa chủ trương của Đảng và Nhà nước thành hiện thực, đáp ứng lòng mong mỏi của nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế. Đó thật sự vừa là khát vọng, vừa là trách nhiệm của mỗi một người dân Huế. TRƯỜNG AN (264/2-11) |
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.
Tham luận tại cuộc tọa đàm “Văn học trẻ Huế- nhìn lại và phát triển” của nhà thơ trẻ Lê Vĩnh Thái: "một lần ngồi uống cà phê tôi được một nhà thơ, người anh trong Hội thống kê về đội ngũ sáng tác trẻ nữ của cố đô Huế chỉ có vỏn vẹn chưa đầy 5 người mà tuổi đã ngoài 30, còn tuổi từ 20, 25 đến 30 thì không thấy!?... "