Đường đến lớp

09:17 17/01/2020

NGÔ THỊ Ý NHI

Ở Huế, có những buổi sáng cứ thích nằm nghe tiếng con nít rủ nhau đến trường ríu rít như chim. Bình yên đến lạ! Thành phố nhỏ bé, nhịp sống không vội vàng, những con đường hiền lành, êm ả trẻ con dễ dàng đi bộ.

Hồi đó chị em tôi cũng vậy. Nhà tôi ở An Lăng, chỉ cần đi dọc theo dòng sông An Cựu, qua cầu Kho Rèn rồi cứ thẳng đường Lý Thường Kiệt mà đi. Dọc đường có vài ba chị em nhà khác nhập bọn cùng chúng tôi. Cứ thế, đông dần cho đến khi ngôi trường hiện ra trước mắt. Trường Tiểu học Lê Lợi. Dòng sông “nắng đục mưa trong” có rất nhiều bến nước. Nhưng cái bến chị em tôi thích nhất là bến trước ngõ nhà tôi. Bến có nhiều bậc đá, có cây vông đồng to cao thân đầy gai nhọn tỏa bóng mát rợp một vùng. Các bà, các chị vẫn ra giặt giũ. Tôi thích nhìn người ta giặt chiếu. Chiếc chiếu gấp lại, đưa lên cao rồi đập mạnh đánh “bộp”. Nước bắn tung tóe. Hai chị em vuốt mặt, giũ tóc cười như nắc nẻ rồi mới chịu quày quả dắt nhau đi. Mẹ đã cấm không được mon men xuống bến: “Dưới sông có con ma rà rình con nít. Nó kéo hụt chân chết chìm”. Mẹ nói vậy đó. Sợ lắm nhưng chưa đứa nào thấy con “ma rà”. Hai cô nhóc vẫn lén ba mẹ lò mò xuống mấy bậc đá, nhúng hai bàn chân bé xíu xuống mặt nước lấp xấp rồi mới chịu quay lên. Nhưng một bữa hai đứa thấy một chiếc dĩa hoa trôi bập bềnh theo dòng nước. Chiếc dĩa có hoa văn như chiếc dĩa mẹ vẫn dọn ăn. Nó làm bằng sành sao có thể nổi trên mặt nước. Như vậy nó là... ma rồi. Con ma rà giả bộ biến thành cái dĩa để người ta tham lội ra vớt rồi kéo chân thế mạng. Hai đứa thầm thì bàn tán dáo dác ngó tới ngó lui. Cái dĩa hoa vẫn bập bềnh nhấp nhô theo dòng nước. Bốn bàn chân líu quíu bỏ chạy. Và từ đó trên đường đi học cả hai không dám rủ rê la cà mấy bến sông nữa.

Cuối năm lớp bốn, ba mẹ chuyển nhà về chợ An Cựu. Lộ trình đi học không thay đổi mấy. Thay vì đi bên này sông An Cựu thì chúng tôi đi dọc bên kia,và không phải qua cầu Kho Rèn nữa. Trên đường đi học về, chưa đến cung An Định có một ngôi nhà cổng gỗ sơn xanh. Cứ mỗi lần chị em tôi đi ngang là vang lên tiếng chó sủa inh ỏi. Mấy hôm đầu thì cũng có hơi sờ sợ nhưng khi khám phá ra con chó hung dữ đó đã bị xích vào cột thì hai chị em mừng ra mặt. Hai đứa đu vào cánh cổng thò đầu sủa “gâu gâu”. Con chó lồng lộn “gâu gâu” đáp lại. Vùng vẫy, hung dữ mà làm gì! Mày bị xích rồi. Cả hai cười như nắc nẻ, chán rồi mới chịu bỏ đi. Được hai ba hôm chi đó. Một buổi chiều mưa lâm thâm, hai đứa hai cái áo mưa kín mít hớn hở tiến dần đến cái cổng xanh. Chỉ mới thò đầu vào, chưa kịp “gâu gâu” thì con chó nhảy chồm lên mấy chấn song. Nó không còn bị xích. Hai đứa thất kinh hồn vía cắm đầu chạy. Con chó phá được cổng lao ra. Thay vì chạy trên đường cái thì cả hai nhào xuống mé sông lấp xấp nước. Cô em trượt té. Con chó táp một miếng vào cái áo mưa. Có tiếng chân người rồi tiếng quát: “Vàng, vô nhà”. Hú vía! Sau lưng bà chủ nhà cao giọng mắng. Mặt cắt không còn giọt máu, hai đứa im thin thít líu ríu hết quãng đường về. Dĩ nhiên hai chị em đối diện ba mẹ với hình dạng xác xơ thảm hại. Cô chị luôn là người “đứng mũi chịu sào” khóc tấm tức: “Tụi con không làm chi hết, tự nhiên con chó đuổi cắn con”. Ba lắc đầu ngao ngán. Hôm sau ông chở hai cô con gái đi học bằng con đường khác. Nghe ba nói đó là đường Nguyễn Huệ. Trên đường đi ba lưu ý cung đường nào nhiều xe, ngã tư nào phải cẩn thận. Và rồi mấy bữa sau hai chị em tôi tiếp tục dắt nhau chân sáo đến trường.

Mưa! Vẫn những ngày mưa lê thê của Huế. Những buổi chiều tan lớp trời nặng một màu chì. Con đường như dài hơn. Hai chiếc áo mưa, bốn bàn chân nhỏ xíu. Mỗi lần thấy tháp nhà thờ hiện ra là sắp đến nhà. Nhưng một bữa hai chị em dừng lại ngước mắt nhìn lên. Bóng giáo đường thâm u quạnh quẽ. Và phía trước là một bức tượng, tượng Chúa, hẳn nhiên rồi. Bức tượng lớn lắm, đứng trên bệ cao uy nghi sừng sững. Hai đứa nhìn, nhìn mãi. Khuôn mặt đó, chiếc áo choàng thùng thình và hai cánh tay giơ ra in hình trên bầu trời xám xịt. Ít lâu sau đó, cô chị theo bạn bè đi một con đường khác. Dĩ nhiên là ba mẹ không biết chuyện này. Con đường uốn quanh bên cánh đồng mênh mông. Hai bên đường là hai hàng cây cao đến mùa có những chùm trái nhỏ. Nghe người ta bảo đó là cây muối. Không hiểu sao lại có tên này. Chắc trái nó có vị mặn. Nghĩ thế thôi nhưng chẳng đứa nào dám nếm thử vì sợ “chết dại”. Con đường này chúng tôi gọi là đường hàng muối, lúc nào cũng tấp nập xe cộ.

Trời cứ mưa! Những ngày mưa lê thê dầm dề của Huế! Một buổi chiều như mọi buổi chiều, vẫn hai chiếc áo mưa lúp xúp, bốn bàn chân bé xíu lầm lũi trong dòng xe cộ ngược xuôi. Một chiếc xe dừng lại:

- Nhà hai cháu ở đâu?

Cô chị nhanh nhẩu:

- Dạ, chợ An Cựu.

- Lên chú chở về.

Hai chị em leo lên ngồi gọn lỏn trong chiếc xe bịt bùng ấm áp. Chỉ một thoáng là về đến nhà. Mẹ ngạc nhiên không biết sao hôm nay hai chị em về quá sớm. Cả hai tíu tít: “Có chú nớ, chú chở tụi con về”. Mẹ hốt hoảng ôm lấy cả hai: “Răng dại rứa con ơi! Nì, cấm. Cấm tuyệt đối không được lên xe người lạ. Nghe chưa! Có ngày người ta chở hai chị em đi mất ba mạ biết mô mà tìm”. Rồi bà thở ra quay người đi lẩm bẩm: “Thời buổi chừ biết tin ai! Thiện ác lẫn lộn”. Hai chị em, cô chị lớp năm, cô em lớp ba ngơ ngác coi bộ hoang mang lắm.

Tối về, ba biết chuyện. Không phải chỉ lo “thời buổi chừ” mà còn cái lo khác nữa. Con đường đó xe chạy năng lắm. Nhất là xe nhà binh phóng rất ẩu. Nguy hiểm! Bởi vậy ba không chỉ chị em con đi đường hàng muối. Thôi thì để khỏi rắc rối lôi thôi, đi xe đò cho an toàn.

Xe đò cũng như xe buýt ngày nay nhưng nhỏ hơn. Hai băng ghế dọc theo hai bên thành xe đông đúc các bà, các chị. Giữa lòng xe là thúng, mủng, hàng hóa chất chồng. Anh lơ xe đu bám phía sau vỗ vỗ vào thành xe ra hiệu khởi hành. Hai chị em lọt thỏm trong những chuyến xe ồn ào như thế để đến trường. Bên đường, những hàng muối lùi dần, lùi dần về phía sau. Đồng ruộng mênh mông chìm vào cơn mưa dầm dề ướt át. Tôi nhìn, nhìn mãi mà không biết rằng những chuyến xe đó chở chị em tôi xa dần, xa dần thời thơ ấu...

Những năm tháng xa xưa ấy vẫn bất chợt trở đi trở lại trong tôi một sớm một chiều nào đó. Sau này lớn lên, mỗi lần về Huế có dịp đi ngang qua ngôi giáo đường xưa cũ tôi vẫn dừng lại rất lâu trước tượng Chúa Cứu thế. Ngài vẫn khoan hòa đứng đó với vòng tay dang rộng. Và trước mắt tôi hiện ra hình ảnh hai cô bé ngoại đạo với đôi chân bé bỏng dại khờ hốt hoảng quay người chạy trốn. Lạy Chúa! Con biết dẫu chạy đi đâu thì chị em con cũng không ra khỏi vòng tay của Ngài. Ngài đã rộng lòng che chở chị em con! Ôi, những con đường, những con đường đến lớp...“Thời buổi chừ biết mô thiện ác!” Câu nói của mẹ ám ảnh tôi đến tận bây giờ. Thời nào thì cái ác vẫn lẫn vào cái thiện, đội lốt cái thiện không chừng. Mà trẻ thơ thì non nớt quá, khờ dại quá. Trẻ thơ cứ hồn nhiên phạm sai lầm mà không hề ý thức rằng nguy hiểm đang chờ chực xung quanh. Dẫu thời đại bốn chấm không đi nữa, dẫu camera khắp hang cùng ngõ hẻm đi nữa thì căn bản vẫn là lòng dạ con người. Cần lắm những vòng tay che chở.

Cách đây chưa lâu một cô bé, chắc cũng trạc tuổi chị em tôi hồi đó, theo ba mẹ rời Việt Nam đến một xứ sở tốt đẹp, hiện đại, nổi tiếng luật pháp nghiêm minh. Vậy mà đau đớn thay, em đã bị xâm hại rồi sát hại khi còn mang cặp sách trên vai, hớn hở tung tăng trên đường đến lớp…

N.T.Y.N  
(SHSDB35/12-2019)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Báo Tin Tức Chúa Nhựt, 3.11.1940 mở đầu bằng mấy hàng như sau: “Hai mươi chín tháng Chín Annam (20 Octobre 1940). Thêm một ngày đáng ghi nhớ. Một người đã mất: cụ Sào Nam Phan Bội Châu

  • Với giọng văn sinh động, pha chút hài hước, hình minh họa ngộ nghĩnh, phù hợp với lứa tuổi học trò: “Chuyện kể về thầy trò thời xưa”, “Những tấm lòng cao cả” hay bộ văn học teen “Cười lên đi cô ơi”… sẽ đem đến cho độc giả nhiều cung bậc cảm xúc và hoài niệm.

  • Trong tất cả các Ni sư Phật giáo mà tôi được biết và chịu ơn hoằng pháp vô ngôn, có lẽ người gần gũi với tôi nhất trong đời là Cố Đại Trưởng lão Ni chúng – Sư Bà Cát Tường - nguyên trụ trì chùa sư nữ Hoàng Mai ở Thủy Xuân – Huế.

  • LTS: Nhà thơ, nhà văn Thanh Tịnh năm 78 tuổi sức khỏe không còn như buổi thanh niên, nhưng ngòi bút của ông vẫn còn cái sung sức của một người đã từng yêu du lịch và làm nghề hướng dẫn khách du lịch toàn Đông Dương. Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc những trang hồi ký đầy lý thú của Thanh Tịnh.

  • NGUYỄN XUÂN HOA

    Tôi không có dịp được học với thầy Phạm Kiêm Âu, người thầy nổi tiếng ở Huế, nhưng lại có cơ duyên cùng dạy ở trường nữ trung học Đồng Khánh với thầy trong các năm 1974 - 1975.

  • Vậy là nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh đã về cõi thiên thu giữa một sáng mùa thu Hà Nội lay phay gió mù u!...Trước khi chưa kịp được vuốt mắt, dường như đôi đồng tử của ông vẫn còn lưu giữ lại hình ảnh đau đáu về con sông Cụt quê nhà.

  • Với một tướng lãnh võ biền, thì mục tiêu cuộc dẹp loạn là đánh tan loạn quân, rồi ca khúc khải hoàn, ăn mừng chiến thắng.

  • PHÙNG TẤN ĐÔNG

    Đời của nó như thể bềnh bồng
    Cái chết của nó như thể an nghỉ

                               F.Jullien
    (Dẫn nhập cuốn “Nuôi dưỡng đời mình - tách rời hạnh phúc” - Bửu Ý dịch, 2005)

  • THANH TÙNG

    Hiệp định Genève ký kết, sông Bến Hải tưởng chỉ là giới tuyến tạm thời, không ngờ đã trở thành ranh giới chia cắt đất nước Việt Nam hơn 20 năm. Nỗi đau chia cắt và biết bao câu chuyện thương tâm, cảm động đã diễn ra ở đôi bờ Hiền Lương kể từ ngày ấy. Nhiều cuộc tình đẫm máu và nước mắt. Có những đôi vợ chồng chỉ ở với nhau đúng một đêm. Có người chồng Bắc vợ Nam, khi vợ được ra Bắc thì chồng lại đã vào Nam chiến đấu, đời vợ chồng như chuyện vợ chồng Ngâu.

  • Thưởng thức là ngưỡng cửa của phê bình. Chưa bước qua ngưỡng cửa ấy mà nhảy vào cầm bút phê bình thì nhất định mắc phải những sai lầm tai hại. Không còn gì ngượng bằng đọc một bài người ta đem dẫn toàn những câu thơ dở và những câu ca dao dở mà lại đi khen là hay”. (Vũ Ngọc Phan, trích từ Hồi ký văn nghệ, tạp chí Văn Học, Hà Nội, số 4 năm 1983, trang 168).

  • VƯƠNG TRÍ NHÀN

    I
    Hè phố Hà Nội vốn khá hẹp, chỉ có điều may là ở cái thành phố đang còn lấy xe đạp làm phương tiện giao thông chủ yếu này, người đi bộ có phần ít, phía các phố không phải phố buôn bán, vỉa hè thường vắng, bởi vậy, nếu không quá bận, đi bộ lại là cái thú, người ta có thể vừa đi vừa nghỉ, thoải mái.

  • Gặp người thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm xưa, tôi có dịp biết thêm những tình tiết mới quanh câu chuyện hơn 30 năm về trước khi tiểu thuyết “Búp sen xanh” của nhà văn Sơn Tùng được tái bản lần đầu.

  • THẾ TƯỜNG
                   

    "Quê hương là chùm khế ngọt
    cho con trèo hái cả ngày"

  • Một nhà báo Pháp sắp đến Việt Nam để tìm lại một di sản chiến tranh, nhưng ở một khía cạnh nhân văn của nó - đó là những con người, địa điểm từng xuất hiện trong các bức ảnh mà nữ phóng viên chiến trường nổi tiếng Catherine Leroy ghi lại trong cuộc tấn công Mậu Thân vào thành phố Huế. 

  • Thanh Minh là bút danh chính của Nguyễn Hưu(1), người làng Yên Tập, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, nay là xã Tân Lộc, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh.

  • LTS: Nhà văn Lan Khai tên thật là Nguyễn Đình Khải, sinh năm Bính Ngọ 1906 ở Tuyên Quang, song lại có gốc gác dòng họ Nguyễn ở Huế. Ông nổi tiếng trên văn đàn Việt Nam từ những năm 1930 - 1945, được mệnh danh là “nhà văn đường rừng”, để lại hàng trăm tác phẩm văn học, trong đó có gần 50 cuốn tiểu thuyết.

  • Thực tế lịch sử gần 70 năm qua đã khẳng định rằng Cách mạng Tháng 8 năm 1945 và sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là kết quả của hành trình 30 năm tìm đường cứu nước của Bác Hồ và là kết quả tất yếu từ công lao to lớn của Bác chuẩn bị cho việc tiến hành cuộc cách mạng giải phóng kể từ ngày Bác về nước.

  • Tháng Bảy âm. Tháng cô hồn. Mồng một âm đã rả rích mưa báo hiệu cho một tháng âm u của Tiết Ngâu. Sắp rằm, tâm trí chợt như hửng ấm khi tiếp được cái giấy Hà Nội mời dự lễ khánh thành nhà bia và Khu tưởng niệm đồng bào ta bị chết đói năm 1945. Chợt nhớ, công việc này đã manh nha từ hơn mười năm trước…

  • LTS: Nguyễn Hưu, bút danh Thanh Minh, sinh năm 1914, quê huyện Can Lộc, hoạt động báo chí và văn học từ những năm 1934 - 1935. Ông là nhà báo, nhà thơ, dịch giả Hán - Nôm, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, nhà quản lý văn hóa văn nghệ có nhiều thành tựu và cống hiến. Ông là Hội trưởng Hội văn nghệ Hà Tĩnh đầu tiên. Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông [21.8], VHNA sẽ lần lượt đăng một số bài viết về ông.

  • Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)