Đừng để nhà văn bất an khi cầm bút

15:13 01/12/2008
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

- đời, khi mắng thì bao giờ người ta cũng lớn tiếng và khi xin lỗi thì bao giờ cũng thấp giọng (thậm chí, không mắng nữa nghĩa là đã xin lỗi rồi đó!) Đối với nhà văn và tác phẩm văn học thì sau khi xúc phạm nặng nề, sau khi kết oan đủ kiểu, người ta nhận ra rằng họ đã sai thì họ thường không hề nói lên một lời xin lỗi, và cũng thường không hề bị kết án tuyên tội như những trường hợp vi phạm pháp luật khác. Im lặng là huề!
- Ở đời, người ta có thể chạy tội bằng cái câu: “Tui làm điều này có phải vì quyền lợi của tui đâu? Vì dân, vì nước, vì.. (đủ thứ) đó chứ!” để mà làm những điều thực sự ra chẳng vì ai cả, mà vì... vì cái gì thì thú thật là cho đến giờ phút này tôi vẫn còn chưa dám mạnh miệng nói ra! Nhưng cứ được “đỡ đầu” bằng cái cớ “vì lợi ích chung” đó mà người ta đã làm biết bao chuyện hại biết bao người, và vẫn vô tư hồn nhiên vô tội!

- Ở đời, thường thì người ta chỉ thấy những tác hại của cái ác trực tiếp, còn cái ác gián tiếp thì ít ai thấy dù tác hại của nó đôi khi còn gấp tỉ lần. Cũng như khi ta chạy xe đụng một ai đó bị đau cái chân, ta phải bồi thường ngay, nhưng khi hằng ngày ta bóp còi inh ỏi làm đau cái đầu (và hậu quả tiềm ẩn không thể lường hết được) cho bao người thì chẳng ai bắt đền ta cả!
Khi nhà văn Nguyễn Ngọc Tư bị kiểm điểm và có rất nhiều dư luận ủng hộ NNT, tôi cảm thấy mừng nhưng vẫn e mừng chẳng bao nhiêu, bởi vì 3 cái lẽ “ở đời” như trên.

Đối với tác phẩm văn học mỗi người có thể cảm nhận một cách khác nhau. Tôi có thể không ăn được sầu riêng (*) nhưng tôi không thể bảo rằng sầu riêng là thứ trái cây hôi thối, nhân dân không thể ăn được. Cái chuẩn của văn học – dù không ai có thể đưa ra cái chuẩn ấy nhưng nó vẫn có. Tôi có thể không thấy Truyện Kiều hay như mọi người ca tụng, nhưng tôi không thể không công nhận rằng Truyện Kiều là một tác phẩm lớn; không thể bảo rằng đó là một tác phẩm nói về gái điếm, ở bên Tàu thời đó thì mới có những quan chức như Hồ Tôn Hiến, những người như Mã Giám Sinh, chớ ở ta thời nay làm gì có, cớ sao mọi người cứ đem Truyện Kiều ra dạy cho trẻ con học! (Chức năng “giáo dục” “định hướng” của Truyện Kiều nằm ở đâu khi viết về một cô gái làm điếm và kết thúc cuộc đời rất là tiêu cực: nhảy sông tự tử rồi cuối cùng là đi tu, chẳng chịu lấy chồng sinh con đẻ cái góp sức xây dựng xã hội gì cả!)

Chúng ta cứ ước vọng về một nền văn học MỚI, mà lại để cho những người “chăm sóc văn học” CŨ (tôi dùng từ này chưa chính xác lắm) như thế này thì biết chừng nào con cái chúng ta mới có cái gì hay để mà xách đem khoe với hàng xóm? E rằng con số 197 năm nữa nước ta mới đuổi kịp hàng xóm ( ) sẽ bị văn học góp phần làm cho tăng cao hơn nữa.
Nhà văn chúng tôi tâm hồn rất nhạy cảm, một người bị đánh cả làng giật mình. Mà cái giật mình của những người sống nặng về tâm hồn thì hậu quả không thể lường hết được! Kính mong Đảng và Nhà nước khi đã xem chúng tôi là những “chiến sĩ trên mặt trận văn hóa” thì hãy quan tâm đến chiến sĩ nếu có ai đó (nhân danh....) áp đặt, bắt nạt chiến sĩ; có như thế thì “chiến sĩ” mới yên tâm mà làm chiến sĩ. Kính mong những vị có trách nhiệm “chăm sóc về văn học” hãy làm đúng, làm tròn trách nhiệm của mình, giữ uy tín cho Đảng và Nhà nước; giúp chúng tôi, đừng để cảm giác bất an luôn đè nặng chúng tôi khi cầm bút.
T.N

(nguồn: TCSH số 207 - 05 - 2006)

 



-----------------
(*) Nguyễn Ngọc Tư có lần đã ví mình như trái sầu riêng.
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".