Dư âm tiếng gà

14:54 06/05/2022

LÊ QUANG THÁI

Ca, kêdậu đều diễn nghĩa chỉ tiếng gà. Năm Dậu là năm của con gà tại vị để đóng vai trò trọng tài chỉ trỏ giờ giấc sớm - trưa - chiều - tối cho qua ngày đoạn tháng.

Ảnh: internet

Âm hưởng của tiếng gà có thể ở dạng hình tinh chất hoặc dẫu cho có khéo tài tình dịch nghĩa lối Tây Tàu đi nữa thì vẫn như còn vang vọng đến người đời hôm nay với những nỗi cảm hoài khắc khoải buồn vui.

Gà là loài chim thiêng như sử sách đã ghi chép. Gà rất thông dụng và phổ biến, nói cách khác là có tính chất đa chức năng. Trong giao tiếp, cưới hỏi, chữa bệnh, chiêu đãi, tết nhất, cúng tế, lễ lượt, thù tạc vãng lai mà thiếu gà, vắng gà, không gà thì không thành lễ, mất vui, khó thiêng. Có thể rách việc là đằng khác vì thần hoặc chủ hoặc khách hoặc khứa không thể nào thu chấp hoặc cực lòng lắm mà cho qua việc, trôi chuyện. Tại gà hay tại tâm, tại tạng tại bụng, tại dạ mà làm hư sự. Xem giò, coi tướng thì sẽ vỡ lẽ.

Tuy đã con gà bằng da lông xương thịt nhưng người có trí tưởng tượng phong phú nên đã tạo ra những hình tượng gà khác: gà đất, gà giấy, gà ni-lông, gà cao su, gà điện tử và nhất là gà đẻ trứng vàng ở bảng quảng cáo của ngành kim tiền. Bằng cách nào cũng đặng, cốt sao khéo lời đà dặm để văng tiền lì xì kín hở hoặc có tốt thì bỏ bì, đừng ghi số là thượng sách.

Dù cho thân nhỏ thó gà bay được chẳng bao xa, nhưng gà khéo chạy và chui rào để đi cửa nào cũng trót lọt, từ thượng vàng cho đến hạ cám. Gà đồng đã thực sự trở thành đồng, hình tượng gà chễm chệ và đầy uy vũ, dương oai bộ cánh, óng ánh trên mặt vòng cầu của Chương đỉnh đặt trước Thế Miếu kể từ tháng giêng năm Đinh Dậu, 1837.

Gà thật đa dạng, nhiều màu sắc và lắm hình thái. Có gà ta, gà tây. Nào gà rừng, gà nhà. Chưa hết, nào là gà cồ, gà chọi, gà thiến, gà giò, gà choai, gà mệ, gà quạ, gà trắng, gà xước, gà nước... Bay thoát lên hiện thực có cách nói bóng nói gió thì có gà rũ, gà dịch, gà quay, gà điên, gà què, gà quạng, gà tàng, gà nuốt dây thun... Kể từ ngày giao tiếp với phương tây, gà và sản phẩm của gà trở nên đắt giá và có giá hơn.

Vinh hạnh cho loài gà là xưa nay văn chương bình dân và bác học đã nói quá nhiều về giống gà. Gà trống đẻ trứng là điềm tốt, gà mái gáy là điềm xấu.

Người Huế sành điệu ăn uống, nói nửa đùa nửa thực: "Bất thực Lương Quán kê" (hoặc Cư Chánh kê) - Hiềm một nỗi là ở hai làng không thiếu ruộng thì có nhiều ruộng xấu. Lúa đâu có nhiều và sây hạt để có rơi vãi nhiều cho gà kiếm chác, bươi móc may ra được căng diều tối ngày. Gà ốm xo, dơ xương dẫu cho là gà đầu mùa đông đi nữa: "Ếch tháng ba, gà tháng mười".

Gà Thọ Cương gáy hay, âm hưởng tiếng gáy vang dội trong không trung thoáng rộng. Nghe tiếng gáy, người đang ngủ thức giấc. Ai nấy bắt tay vào việc, mở đầu cho một ngày mới:

Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương

Văn chương chữ nghĩa đâu phải khéo là "trò chơi". Không hiểu sao, một nghị sĩ hay dân biểu gì đó trước năm 1975 đã gà quạng đến độ dịch từ ghép chữ "canh gà" thành "cháo gà" cho ngon miệng đối với khách nước ngoài tại xứ hòn ngọc Viễn Đông. Chưa hết, ông làm nghề dân biểu mà lại khéo tán thêm chuyện chẳng ai nhờ, rằng cháo gà Thọ Cương ở gần Long Thọ là tuyệt ngon. Đó là đặc sản truyền thống của cố đô Huế!

Dịch thuật như thế thì đạt đến mức "hết sẩy”. Bình thường không biết ông nghị có quen thói ngủ gà ngủ gật không mà lúc tỉnh giấc ông lại ngứa cổ nói bậy cho sướng miệng...

Thiết nghĩ, nếu nhắc đến chuyện "bát cháo gà" của ông bà Đội Cơ ở núi Ngũ Phong tại Thừa Thiên - Huế, dùng để đưa tiễn ông vua yêu nước Duy Tân chuẩn bị hành trang lên đường vào Nam Ngãi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa năm 1916 do hai ông Thái Phiên và Trần Cao Vân chủ trương rồi móc nối đến tận thiên tử thì độc đáo và tuyệt vời biết mấy. Đó là một bát cháo gà mang ý nghĩa lịch sử. Phải chăng vì đãi vua mà thết cháo gà nên sinh xui xẻo hay do khâu tổ chức để hở mối. Sau này, bản án do Nam triều xét nghị ghi rõ:

"Thủy nhi Hậu hồ thùy điếu, thiện tả chiếu văn, kế nhi Thương Bạc đình thuyền yếu nghinh thánh giá. Hà Trung mạch phạn, Ngũ Phong Kê thang, thánh thể phong trần, giai bỉ bối vi chi tội nghiệt".

Dịch là:

"Ban đầu buông câu ở Hậu hồ, tự tiện viết chiếu văn, kế đậu thuyền đến Thương Bạc, đón rước nhà vua xuống thết cơm tẻ ở làng Hà Trung, “cháo gà” ở núi Ngũ Phong, mình rồng phải dãi dầu gió bụi, tội nghiệp ấy đều bởi bọn kia gây ra".

Cũng nói chuyện gà, chí sĩ Nguyễn Thượng Hiền qua bài PHÚ CẢI LƯƠNG hồi nước ta mới duy tân có những câu nhắc đến việc do trên và dưới còn mò mẫm chưa tìm ra chủ trương thay cũ đổi mới thực sự:

"Nói chuyện sinh nhai, bậc làm trên phải dè chừng, chồng ăn chả vợ ăn nem, kẻ dưới tội chi không phí phá."
"Xem trong đoàn thể, buổi mới cốt sao cho chung bụng,
ông nói gà bà nói vịt, việc chi thì cứ để lãi nhai".

Chưa tiêu nhuyễn, thông suốt đường lối thì còn lúng túng, lằng nhằng theo cảnh gỡ mối mà không tìm ra gốc ngọn. Cũng lối suy nghĩ ấy, bằng lối diễn "ý tại ngôn ngoại", nhà thơ Nguyễn Khuyến mượn việc vịnh con vịt để nói toát lên một cái gì khác:

"Cũng đủ lông xương, cũng đủ da
Chẳng ra ngan ngỗng
chẳng ra gà".

Lúc nhập nhằng tranh tối tranh sáng thì dễ nhầm lẫn - Có thể nói vào giờ Dậu thì dễ nhầm nhà tranh và qua nhà ngói. Và ở thời khắc này, người xưa khuyên làm chồng chớ nên rầy la vợ mà chịu thiệt cô đơn bởi đêm dài.

Lúc gần tảng sáng cũng là lúc người dễ nhầm lẫn một khi thần trí chưa tỉnh táo để có trí óc sáng suốt. Phải cảnh giác và có óc tinh tế phân biệt mới khỏi nhầm lẫn và bị lừa dối.

Vào đời Chiến Quốc, Điền Văn tức Mạnh Thường Quân làm tể tướng nước Tề, đi sang nước Tấn, vua Tấn muốn giữ lại không cho về.

Những người cùng đi, có người bày mưu rằng cho một người giả làm chó. Lúc nửa đêm vào kho nước Tần ăn cắp chiếc áo bồ cừu để dâng cho ái phi vua Tần, rồi nói nhờ giúp cho về. Khi đến cửa ải còn sớm quá, trong đoàn tùy tùng có người khéo nhại tiếng gà gáy như hệt. Nhờ thế mà binh lính giữ cửa ải mở cửa cho ra đi. Thế là binh Tần đuổi theo không kịp.

Ôi! Gà không phải chỉ thiêng ở bộ giò, ở xương tủy vì đó là những cơ sở để tiên đoán việc thịnh suy, thời tiết mà gà còn thiêng ở tiếng gáy.

Khái quát về 5 đức lớn của con gà, người xưa đã liệt kê ra: Uy vũ, can đảm, gáy sáng, thảo ăn và khéo nuôi con.

Gáy sáng là bản chất phổ biến và dễ thấy của gà. Tiếng gà mở đầu năm Quý Dậu 1993 biểu hiện hình tượng:

Đầu rồng, đuôi phượng, cánh tiên

để thực sự đáp ứng lời cầu mong của nhà thơ Học Lạc (1842-1915) mà cũng là của mọi người:

Lừng lẫy danh thơm trong mấy nước
Làm sao năm đức giữ cho cùng.

Huế, 20-10-1992
L.Q.T
(TCSH53/01&2-1993)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THỊ THANH NHỊ “Tôi bị thôi thúc bởi một thứ khao khát hiểu biết có liên quan đến những quan hệ giữa người với người hơn là với các đối tượng tự nhiên.”(Sigmun Freud)

  • TZVETAN TODOROV(Cuộc tranh luận văn học giữa George Sand và Gustave Flaubert - qua đánh giá của Tzvetan Todorov)

  • ĐỖ LAI THÚYCon gì sáng bốn chântrưa hai chântối bốn chân?Câu đố của Sphinx

  • HÀ VĂN LƯỠNG1. Trong hai thập niên cuối của thế kỷ XX và những năm đầu thế kỷ XXI, nước Nga đã có những biến đổi chính trị sâu sắc làm thay đổi đất nước trên nhiều phương diện: chính trị - xã hội, kinh tế, văn hoá, giáo dục và văn học nghệ thuật… Những nền tảng xã hội, những chuẩn mực đạo đức trước đây đã từng tồn tại trên bảy chục năm, được tiếp nối qua nhiều thế hệ đã thay đổi.

  • TRẦN QUỐC HỘIGenette coi thời gian là nhân tố trung chuyển cốt truyện đến truyện kể, qua hành vi kể chuyện. Ông đã sáng tạo ra mô hình xử lý thời gian rất thú vị, mô hình xử lý của ông xung quanh những vấn đề cơ bản như trình tự, tốc độ, tần suất kể chuyện.

  • HÀ VĂN THỊNH                                                  Luận điểm trung tâm của Tư tưởng Hồ Chí Minh là Độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH. Đó là quan điểm chiến lược có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ tiến trình Cách mạng Việt . Chính vì thế, nắm bắt một cách sâu sắc tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Lê Nin để vận dụng thật sáng tạo kinh nghiệm của Cách mạng tháng Mười (CMT10) vào hoàn cảnh cụ thể của Cách mạng Việt Nam (CMVN) là mục đích xuyên suốt của Tinh thần và Tư tưởng Hồ Chí Minh.

  • HOÀNG NGỌC HIẾNĐây là hai vấn đề tôi tâm đắc nhất trong nhiều vấn đề lý thú được nêu lên trong  tác phẩm của André Chieng (1).

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(tiếp theo và hết)Trong tập chuyên luận của A.Cheng, tìm hiểu những nguyên nhân tư tưởng tạo ra thần tích kinh tế Trung Hoa trong 3 thập kỷ qua, từ chương này sang chương khác, tác giả nhấn mạnh những nét đặc sắc của văn hoá Trung Hoa:...

  • NGUYỄN HỮU QUÝ1. Einarokland, nhà thơ Na Uy đã phát biểu tại hội thảo Thơ và toàn cầu hóa, tổ chức ở Vácsava tháng 10 năm 2001 rằng: “Con người, còn ngôn ngữ thì còn thi ca. Thi ca biết tự lo toan cho bản thân mình”.

  • BẢO NHÂNỞ nước ta, Huế được xem là kinh đô của Phật giáo, không phải bởi vì ở đây có nhiều chùa tháp, đông đảo tín đồ theo Phật hay từng có một thời là cái rốn của Phật giáo Việt , biệt xuất nhiều bậc cao tăng đương đại. Theo chúng tôi, nói như nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì tính cách Huế, không phải Nho, mà chính là Thiền.

  • ĐỖ LAI THÚY(Tiếp theo Sông Hương 11/2007)Tiếng nói của tình yêu đồng giới, của dục cảm đồng giới không chỉ bằng ngôn ngữ của hữu thức, trực tiếp, mà chủ yếu còn bằng ngôn ngữ của vô thức, hàm ẩn.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆPNhững ai gần Trương Đăng Dung, thường nghe anh nói nhiều về các loại giới hạn: giới hạn của đời, sự phi lý của cõi nhân sinh, sự cản trở của những tín điều xưa cũ...

  • TƯỞNG THUẬT TRÁC Có phải hiện nay văn học đang đối mặt với thời đại tiêu dùng hay không? Nhiều người còn hoài nghi vấn đề này. Thậm chí có người còn phủ định sự có mặt của thời đại tiêu dùng trong khi miền Đông và miền Tây Trung Quốc đang có sự không cân bằng và tất cả đều đang xây dựng một xã hội khá giả.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHKhông Lộ là một vị thiền sư thời Lý, ông họ Dương, quê ở Hải Thanh, chùa Nghiêm Quang - nay là chùa Keo, thuộc xã Vũ Nghĩa, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình; dòng dõi nhiều đời làm nghề chài lưới, sau bỏ nghiệp sông nước, xuất gia tu Phật, thường trì tụng Đà-la-ni.

  • THÁI DOÃN HIỂUNguyễn Khắc Thạch làm thơ như đi chân trần trên lưỡi dao bén của sự thật, máu toé vãi ra. Anh lấy dự cảm của mình làm thuốc băng bó. Vết thương thành sẹo. Thạch gọi đấy là thơ! “Thơ là sẹo của sự thật”.

  • TÂM VĂNNgười xưa có câu: “Tòng thiện bất túc dĩ vi chính” (Chỉ theo điều thiện thì không đủ để làm chính trị). Câu nói đó xem ra rất đúng với Tào Tháo.

  • LƯU KHÁNH THƠ1. Nam Trân trong dòng thơ tả chân của phong trào thơ mớiHoài Thanh đã dùng khái niệm tả chân để định danh một nhóm các tác giả Thơ mới tương đối gần nhau về bút pháp.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN(Trao đổi về tiểu luận Văn học như là tư duy về cái khả nhiên của Trần Đình Sử, Văn Nghệ số 24 ngày16/6/2007)

  • VĂN TÂMXứ Huế – Thừa Thiên có một vị lão thành cách mạng được nhiều người biết tên tuổi. Đó là cụ Nguyễn Vạn, tức Lê Bốn; tên khai sinh là Phùng Lưu – "thầy Lưu", sinh năm 1916, quê ở làng Thanh Thủy Thượng (nay thuộc xã Thủy Dương), huyện Hương Thủy.

  • NGUYỄN BÙI VỢI"Chống tham ô lãng phí" là một bài thơ về đề tài chính trị xã hội, một vấn đề bức xúc của cuộc sống. Nó được viết ra năm 1956 khi miền Bắc sau chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ đang hàn gắn vết thương chiến tranh, khai hoang, phục hoá, tìm công ăn việc làm...