LÊ QUANG THÁI
Ca, kê và dậu đều diễn nghĩa chỉ tiếng gà. Năm Dậu là năm của con gà tại vị để đóng vai trò trọng tài chỉ trỏ giờ giấc sớm - trưa - chiều - tối cho qua ngày đoạn tháng.
Ảnh: internet
Âm hưởng của tiếng gà có thể ở dạng hình tinh chất hoặc dẫu cho có khéo tài tình dịch nghĩa lối Tây Tàu đi nữa thì vẫn như còn vang vọng đến người đời hôm nay với những nỗi cảm hoài khắc khoải buồn vui.
Gà là loài chim thiêng như sử sách đã ghi chép. Gà rất thông dụng và phổ biến, nói cách khác là có tính chất đa chức năng. Trong giao tiếp, cưới hỏi, chữa bệnh, chiêu đãi, tết nhất, cúng tế, lễ lượt, thù tạc vãng lai mà thiếu gà, vắng gà, không gà thì không thành lễ, mất vui, khó thiêng. Có thể rách việc là đằng khác vì thần hoặc chủ hoặc khách hoặc khứa không thể nào thu chấp hoặc cực lòng lắm mà cho qua việc, trôi chuyện. Tại gà hay tại tâm, tại tạng tại bụng, tại dạ mà làm hư sự. Xem giò, coi tướng thì sẽ vỡ lẽ.
Tuy đã con gà bằng da lông xương thịt nhưng người có trí tưởng tượng phong phú nên đã tạo ra những hình tượng gà khác: gà đất, gà giấy, gà ni-lông, gà cao su, gà điện tử và nhất là gà đẻ trứng vàng ở bảng quảng cáo của ngành kim tiền. Bằng cách nào cũng đặng, cốt sao khéo lời đà dặm để văng tiền lì xì kín hở hoặc có tốt thì bỏ bì, đừng ghi số là thượng sách.
Dù cho thân nhỏ thó gà bay được chẳng bao xa, nhưng gà khéo chạy và chui rào để đi cửa nào cũng trót lọt, từ thượng vàng cho đến hạ cám. Gà đồng đã thực sự trở thành đồng, hình tượng gà chễm chệ và đầy uy vũ, dương oai bộ cánh, óng ánh trên mặt vòng cầu của Chương đỉnh đặt trước Thế Miếu kể từ tháng giêng năm Đinh Dậu, 1837.
Gà thật đa dạng, nhiều màu sắc và lắm hình thái. Có gà ta, gà tây. Nào gà rừng, gà nhà. Chưa hết, nào là gà cồ, gà chọi, gà thiến, gà giò, gà choai, gà mệ, gà quạ, gà trắng, gà xước, gà nước... Bay thoát lên hiện thực có cách nói bóng nói gió thì có gà rũ, gà dịch, gà quay, gà điên, gà què, gà quạng, gà tàng, gà nuốt dây thun... Kể từ ngày giao tiếp với phương tây, gà và sản phẩm của gà trở nên đắt giá và có giá hơn.
Vinh hạnh cho loài gà là xưa nay văn chương bình dân và bác học đã nói quá nhiều về giống gà. Gà trống đẻ trứng là điềm tốt, gà mái gáy là điềm xấu.
Người Huế sành điệu ăn uống, nói nửa đùa nửa thực: "Bất thực Lương Quán kê" (hoặc Cư Chánh kê) - Hiềm một nỗi là ở hai làng không thiếu ruộng thì có nhiều ruộng xấu. Lúa đâu có nhiều và sây hạt để có rơi vãi nhiều cho gà kiếm chác, bươi móc may ra được căng diều tối ngày. Gà ốm xo, dơ xương dẫu cho là gà đầu mùa đông đi nữa: "Ếch tháng ba, gà tháng mười".
Gà Thọ Cương gáy hay, âm hưởng tiếng gáy vang dội trong không trung thoáng rộng. Nghe tiếng gáy, người đang ngủ thức giấc. Ai nấy bắt tay vào việc, mở đầu cho một ngày mới:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Cương
Văn chương chữ nghĩa đâu phải khéo là "trò chơi". Không hiểu sao, một nghị sĩ hay dân biểu gì đó trước năm 1975 đã gà quạng đến độ dịch từ ghép chữ "canh gà" thành "cháo gà" cho ngon miệng đối với khách nước ngoài tại xứ hòn ngọc Viễn Đông. Chưa hết, ông làm nghề dân biểu mà lại khéo tán thêm chuyện chẳng ai nhờ, rằng cháo gà Thọ Cương ở gần Long Thọ là tuyệt ngon. Đó là đặc sản truyền thống của cố đô Huế!
Dịch thuật như thế thì đạt đến mức "hết sẩy”. Bình thường không biết ông nghị có quen thói ngủ gà ngủ gật không mà lúc tỉnh giấc ông lại ngứa cổ nói bậy cho sướng miệng...
Thiết nghĩ, nếu nhắc đến chuyện "bát cháo gà" của ông bà Đội Cơ ở núi Ngũ Phong tại Thừa Thiên - Huế, dùng để đưa tiễn ông vua yêu nước Duy Tân chuẩn bị hành trang lên đường vào Nam Ngãi lãnh đạo cuộc khởi nghĩa năm 1916 do hai ông Thái Phiên và Trần Cao Vân chủ trương rồi móc nối đến tận thiên tử thì độc đáo và tuyệt vời biết mấy. Đó là một bát cháo gà mang ý nghĩa lịch sử. Phải chăng vì đãi vua mà thết cháo gà nên sinh xui xẻo hay do khâu tổ chức để hở mối. Sau này, bản án do Nam triều xét nghị ghi rõ:
"Thủy nhi Hậu hồ thùy điếu, thiện tả chiếu văn, kế nhi Thương Bạc đình thuyền yếu nghinh thánh giá. Hà Trung mạch phạn, Ngũ Phong Kê thang, thánh thể phong trần, giai bỉ bối vi chi tội nghiệt".
Dịch là:
"Ban đầu buông câu ở Hậu hồ, tự tiện viết chiếu văn, kế đậu thuyền đến Thương Bạc, đón rước nhà vua xuống thết cơm tẻ ở làng Hà Trung, “cháo gà” ở núi Ngũ Phong, mình rồng phải dãi dầu gió bụi, tội nghiệp ấy đều bởi bọn kia gây ra".
Cũng nói chuyện gà, chí sĩ Nguyễn Thượng Hiền qua bài PHÚ CẢI LƯƠNG hồi nước ta mới duy tân có những câu nhắc đến việc do trên và dưới còn mò mẫm chưa tìm ra chủ trương thay cũ đổi mới thực sự:
"Nói chuyện sinh nhai, bậc làm trên phải dè chừng, chồng ăn chả vợ ăn nem, kẻ dưới tội chi không phí phá."
"Xem trong đoàn thể, buổi mới cốt sao cho chung bụng, ông nói gà bà nói vịt, việc chi thì cứ để lãi nhai".
Chưa tiêu nhuyễn, thông suốt đường lối thì còn lúng túng, lằng nhằng theo cảnh gỡ mối mà không tìm ra gốc ngọn. Cũng lối suy nghĩ ấy, bằng lối diễn "ý tại ngôn ngoại", nhà thơ Nguyễn Khuyến mượn việc vịnh con vịt để nói toát lên một cái gì khác:
"Cũng đủ lông xương, cũng đủ da
Chẳng ra ngan ngỗng chẳng ra gà".
Lúc nhập nhằng tranh tối tranh sáng thì dễ nhầm lẫn - Có thể nói vào giờ Dậu thì dễ nhầm nhà tranh và qua nhà ngói. Và ở thời khắc này, người xưa khuyên làm chồng chớ nên rầy la vợ mà chịu thiệt cô đơn bởi đêm dài.
Lúc gần tảng sáng cũng là lúc người dễ nhầm lẫn một khi thần trí chưa tỉnh táo để có trí óc sáng suốt. Phải cảnh giác và có óc tinh tế phân biệt mới khỏi nhầm lẫn và bị lừa dối.
Vào đời Chiến Quốc, Điền Văn tức Mạnh Thường Quân làm tể tướng nước Tề, đi sang nước Tấn, vua Tấn muốn giữ lại không cho về.
Những người cùng đi, có người bày mưu rằng cho một người giả làm chó. Lúc nửa đêm vào kho nước Tần ăn cắp chiếc áo bồ cừu để dâng cho ái phi vua Tần, rồi nói nhờ giúp cho về. Khi đến cửa ải còn sớm quá, trong đoàn tùy tùng có người khéo nhại tiếng gà gáy như hệt. Nhờ thế mà binh lính giữ cửa ải mở cửa cho ra đi. Thế là binh Tần đuổi theo không kịp.
Ôi! Gà không phải chỉ thiêng ở bộ giò, ở xương tủy vì đó là những cơ sở để tiên đoán việc thịnh suy, thời tiết mà gà còn thiêng ở tiếng gáy.
Khái quát về 5 đức lớn của con gà, người xưa đã liệt kê ra: Uy vũ, can đảm, gáy sáng, thảo ăn và khéo nuôi con.
Gáy sáng là bản chất phổ biến và dễ thấy của gà. Tiếng gà mở đầu năm Quý Dậu 1993 biểu hiện hình tượng:
Đầu rồng, đuôi phượng, cánh tiên
để thực sự đáp ứng lời cầu mong của nhà thơ Học Lạc (1842-1915) mà cũng là của mọi người:
Lừng lẫy danh thơm trong mấy nước
Làm sao năm đức giữ cho cùng.
Huế, 20-10-1992
L.Q.T
(TCSH53/01&2-1993)
NGUYỄN QUANG HUY
Truyện Nôm bác học đã và đang được quan tâm soi chiếu từ nhiều hướng, nhiều phương pháp. Trong quá trình quan sát và khảo tả, phân tích đối tượng này, chúng tôi thấy có sự lặp lại đáng chú ý hiện tượng thân phận con người.
LTS: Ngoài các công trình nghiên cứu, dịch thuật Phật học, khi còn trụ thế, Hòa thượng Thích Chơn Thiện còn viết nhiều sách, báo về văn hóa dân tộc, gần đây nhất là loạt bài biên khảo Tư tưởng Việt Nam: Nhân bản thực tại luận.
Sông Hương xin trích đăng một số trong loạt bài ấy, như là tấm lòng ngưỡng vọng đến vị Đạo cao, Đức trọng vừa thu thần viên tịch.
VƯƠNG TRÍ NHÀN
Từ sau 1945, có một kiểu người viết văn đã hình thành với chỗ mạnh chỗ yếu của họ. Bài viết không có tham vọng trình bày vấn đề một cách toàn diện, mà chỉ đi vào một số khía cạnh:
NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG
Motif người hóa đá/ đá hóa người là một trong những motif phổ biến của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.
DANA GIOIA
(Tiếp theo Sông Hương số tháng 10/2016)
V.
Xem chừng thơ trong nhà trường lại nhiều hơn ở ngoài thế giới, trẻ em không được bảo cho biết tại sao lại như vậy. Hẳn các em phải ngạc nhiên.
(Robert Frost)
PHẠM ĐĂNG TRÍ
Tết năm ấy, tôi không về Huế ở lại Hà Nội, tôi nhận được một gói quà từ nhà gởi ra. Lúc mở, chỉ thấy mấy cái bánh gói giấy ngũ sắc. Ấn tượng rực rỡ này làm tôi liên tưởng đến phạm trù “ngũ sắc” của Á Đông, đã ra đời từ hàng nghìn năm nay.
DANA GIOIA
Làm cho thực tại tầm thường trở thành mê hoặc.
[Guillaume Apollinaire]
TRẦN KHÁNH PHONG
Chủ nghĩa hiện sinh khẳng định nguyên lí con người phải tự làm ra chính mình, chứ không trông chờ vào ai khác, cho dù tồn tại có bi đát, ngặt nghèo.
Nếu lấy mốc thời điểm năm 1919 để xét đoán Different from the others là bộ phim đầu tiên trực diện về đề tài đồng tính, thì đến nay, lịch sử khai thác đề tài “cấm kỵ” này đã có một hành trình dài gần như song song cùng với sự ra đời của nghệ thuật thứ 7. Với tính chính trị xã hội và đạo đức, cho đến nay, đây vẫn là một vấn đề hết sức đặc biệt trong mọi loại hình nghệ thuật. Lịch sử điện ảnh đã ghi nhận rất nhiều bộ phim với những diễn ngôn tư tưởng khác nhau, thậm chí đối lập. Yêu cầu cấp thiết đặt ra, đó là việc phải “nhận thức lại thực tại”, đặt ra/xác quyết lại quan điểm của công chúng về một tầng lớp người vốn bị xem như “bệnh hoạn”/“lạc loài”…
ĐỖ TRINH HUỆ
Cadière đến Việt Nam cuối thế kỷ 19 và hoạt động văn hóa những năm đầu thế kỷ 20, vào thời điểm mà người Pháp còn mang tư tưởng nước lớn và mẫu gương của nhân loại trong nhiều lĩnh vực.
NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI
Thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du được biểu hiện ở nhiều phương diện. Chẳng hạn như năng lực phát hiện vấn đề, phát hiện những nghịch lý, năng lực cảm thông với những nỗi khổ đau của con người, tài năng cấu tứ, tài năng sử dụng ngôn ngữ, thánh thơ lục bát,…
VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI
NGUYỄN HỒNG DŨNG
INRASARA
VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
NGUYỄN TRỌNG TẠO
LÊ QUANG THÁI
Ngày mỗi lần du khách từ phương xa đến với Huế, không ai không viếng thăm Ngọ Môn, Phu Văn Lâu, trường Quốc Học...
PHẠM TẤN XUÂN CAO
“Sự rung động của hình tướng là cái nôi của vạn vật”1
(Merleau-Ponty)
PHẠM PHÚ PHONG
VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
HUỲNH NHƯ PHƯƠNG
VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
KHẾ IÊM
(Tiếp theo và hết)
PHAN NGỌC
"Kính tặng hương hồn thân phụ"