MAI VĂN HOAN
"Dư âm của biển" - theo tôi là cách gọi hợp nhất cho tập thơ mới này của Hải Bằng. Đặt "Trăng đợi trước thềm" chắc tác giả gửi gắm một điều gì đó mà tôi chưa hiểu được. Song với tôi "Trăng đợi trước thềm" có vẻ mơ mộng quá, tên gọi ấy chưa thể hiện được giai điệu cuộc đời của thơ anh.
Nhà thơ Hải Bằng - Ảnh: tư liệu
Cả tập thơ gần như là dư âm của một thời đã qua - một thời đầy sóng gió, đầy kỷ niệm, đầy ơn nghĩa nhưng cũng lắm tủi hờn và cay đắng. Ở tập thơ này Hải Bằng nghiêng về quá khứ, nghiêng về hồi tưởng, nghiêng về suy tư. Nếu thơ là cuộc đời thì thơ của Hải Bằng chính là cuộc đời của anh. Một cuộc đời chìm nổi, buồn vui khổ đau và hạnh phúc. Cuộc đời ấy để lại dư âm trong những vần thơ tâm huyết của anh. Như là:
"Trong chiều sâu tiếng hát
Lòng cây còn dư âm"
Bởi vậy, ta nghe trong thơ anh dư âm tủi nhục của thời nước mất, nhà tan:
Gió mưa tan vào chiều xế
Chảy một dòng nước mắt thuở sinh con
Đứng trước mộ mẹ, dư âm ấy như vẫn còn văng vẳng bên tai anh:
Suốt một đời lắng đọng
Trên một nấm mồ xanh
Tiếng gì còn vang vọng
Trong làn gió vây quanh
Ta còn nghe trong thơ anh dư âm của những câu mái nhì những khúc Nam ai, Nam bình, dư âm của "tiếng gõ vạn chài tinh sương kéo lưới", dư âm của những câu thơ Hàn Mặc Tử: "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Lá trúc che ngang mặt chữ điền". Huế của tuổi thơ cứ còn dư âm mãi trong anh:
Trời mọc nhà xưa ở hướng đâu
Tháng năm đi học nắng xoa đầu
Một câu thơ đã thành vô tận
Tiếng hát chiều chiều đứng ngõ sau
(Đêm mưa rơi)
Dường như Hải Bằng không để lọt mất một âm thanh nào của cuộc đời, và bao giờ anh cũng lắng nghe dư âm của nó. Lần dở từng trang thơ của anh ta vẫn còn nghe đồng vọng tiếng nhạc Sô-panh, tiếng chim sơn ca và cả tiếng ù ù của những "miệng lu tròn hơi thở". Trong những dư âm ấy có dư âm của một mối tình thầm lặng, một mối tình không được đền đáp, một mối tình đầy trắc trở như chính cuộc đời của anh:
Ai gọi em
em dạ
Đời gọi em
em vâng
Tôi gọi thầm cây lá
Vườn chỉ còn dư âm
Đọc những dòng thơ này tôi cứ ngậm ngùi cho anh, tìm thấy ở anh một "tâm hồn đồng điệu". Anh đã hé mở cho ta biết nỗi niềm thầm kín và số phận bất hạnh của anh. Có ít nhất ba lần trong tập thơ Hải Bằng dùng "dư âm" để đặt tên cho các bài thơ của mình: "Dư âm còn", "Dư âm ngày sinh" và "Dư âm"! Riêng hai chữ "dư âm" thì anh nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần. "Dư âm" một điệp khúc, một nốt luyến trong tập thơ của anh. Tôi cũng không biết đó là một dụng ý nghệ thuật hay một sự trùng lặp vô ý? Chỉ biết rằng gần đây anh có thú thưởng thức âm nhạc và nuôi chim. Có lẽ dư âm của tiếng chim, dư âm của những ca khúc trữ tình đã lắng vào hồn anh. Nên mỗi lần cầm bút những "dư âm" ấy lại bay đến cùng anh. Nhưng sâu xa là dư âm cuộc đời, dư âm của tiếng sóng trong những chiều động biển. Tên tập thơ là "trăng" nhưng hầu hết thơ anh viết về biển. Qua thơ anh ta có thể đoán biết có một thời anh từng gắn bó với biển. Anh là Vĩnh Tôn, dòng dõi Hoàng tộc nhưng đời anh là cuộc đời của CHIM BIỂN. Vì thế anh đặt bút hiệu: HẢI BẰNG! Ta gặp trong thơ anh biển của một thuở vui buồn; biển trong đêm giao thừa; biển trong bình yên của người thủy thủ... Biển trong thơ Hải Bằng không mấy lúc dịu êm. Trừ bài "Trăng Nha Trang" biển có vẻ mơ mộng một chút còn thì toàn bão tố, cuồng phong. Và ngay khi trời yên biển lặng, anh vẫn thấy nó đang ẩn chứa những làn sóng dữ:
Trên biển
Phía trước - trời xanh
Đằng sau - bão tố
(Trên biển)
Trong bài thơ "Một thuở vui buồn" ta vừa nghe "tiếng đổ nát chiến tranh" cùng với "tiếng sóng gầm bão dữ". Biển trong "Ba đầu đề họp lại":
Bão sắp lên rồi vẫn nhớ nhau!
Trên cái nền biển dữ dội ấy hiện lên bóng dáng con thuyền với đôi mắt vò võ: "thao thức hoài bên động bên yên", với mạn thuyền "hà xăm" và chiếc mỏ neo lầm lì, gan góc. Người xưa nói "thi trung hữu họa" điều đó rất hợp với thơ Hải Bằng. Khi anh vẽ thì tranh của anh in đậm chất thơ. Khi anh làm thơ thì thơ anh hóa thành những bức tranh sinh động. Hải Bằng đã thích cái gì thì anh "săn đuổi" đến cùng, thì anh bám sát đến cùng. Lúc anh khoái hai chữ "dư âm" thì "dư âm" được anh dùng mãi đến sốt ruột. Không biết anh có hiểu tâm trạng này của người đọc không? Tôi biết chiếc mỏ neo là hình ảnh mà anh tâm đắc. Trên tường nhà anh có treo bức tranh do chính anh vẽ: một chiếc mỏ neo hoen rỉ cắm sâu vào bờ cát. Có lẽ cũng chính vì tâm đắc với hình ảnh này nên anh cứ nhắc hoài, nhắc mãi. Tôi đã thử làm phép thống kê:
- Chiếc neo đi có gì mà lưỡng lự ("Ba đầu đề họp lại")
- Chạm chiếc mỏ neo trên ngực ("Tình yêu người thủy thủ")
- Chiếc mỏ neo như kim đồng hồ báo giờ gặp gỡ ("Tìm em")
- Cái đích của thuyền không hẳn chiếc mỏ neo ("Cái đích")
…
Tôi cũng không biết đó là sự lặp lại cố ý hay vô tình của tác giả? Mà dù cố ý đi nữa theo tôi, lặp lại quá nhiều như vậy là hơi lạm dụng. Trong tập thơ này ta còn bắt gặp khá nhiều lần anh dùng từ "níu". Trần Hữu Thung đã dùng từ này khá "đắt" trong câu: "lúa níu anh trật dép" (Thăm lúa). Hải Bằng dùng lại cũng được miễn là dùng đúng chỗ. Điều tôi muốn nói là vì anh hơi lạm dụng nên dù từ có "đắt" đến mấy cũng thành ra mòn sáo. Ví dụ:
- Bàn tay níu lo toan ("Em về mặc áo cho thơ")
- Bến níu lại ngây thơ ("Tôi hát về sông Hương")
- Cơn gió mùa không níu được bước đi ("Một thuở vui buồn")
Hải Bằng có mảng thơ thế sự rất đáng chú ý. Thơ thế sự của anh thâm trầm, góc cạnh. Anh vốn là một nghệ sĩ tạo hình bằng rễ cây nên anh thường mượn cây để nói chuyện đời. Trong bài "Cây si" anh viết:
Sáng nay
Cây si đứng ra khỏi chậu
Chậu vỡ đôi
Chỉ thế thôi mà có bao nhiêu ẩn ý đằng sau cái chi tiết có thật ấy. Bài "Ca khúc dân gian" cũng vậy, khổ kết bài thơ làm nhiều người phải giật mình:
Ngày ngày
Vẳng nghe
Vườn nhà bên chim hót
Anh nhớ cây đào, cây ổi, cây chanh.
Đó là những cây mà chủ vườn đã chặt vì không biết "trèo cây" không biết chọn mùa mà hái quả. Sự lười nhác và ngu dốt của người chủ vườn không chỉ gieo tai họa cho cây mà còn gieo tai họa cho cả chính mình. Thơ Hải Bằng thường có những câu kết bất ngờ và đột ngột. Anh đặc biệt thành công ở thể thơ tứ tuyệt. Có thể nói tứ tuyệt là sở trường của anh:
Chim vội qua sông hạ xuống cành
Nắng đi chầm chậm dưới trời xanh
Hàng cây ngả bóng cùng chung hướng
Riêng bóng em về ngả phía anh.
("Ngả bóng")
Như những người làm thơ khác, Hải Bằng cũng chịu sự chi phối của qui luật sáng tạo nghệ thuật. Lúc nào anh viết những điều máu thịt, tâm huyết thì thơ anh chân thực, xúc động, tự nhiên và mới lạ. Đó là những bài thơ anh viết về mẹ, về tuổi thơ về nỗi đau của chính cuộc đời mình. Nhưng khi nào anh lấy sự tìm tòi câu chữ để thay cho cảm xúc lúc đó thơ trở thành những cái xác không hồn. Ở những bài thơ ấy lộ rõ bàn tay của người thợ. Có người khen thơ lục bát Hải Bằng, riêng tôi, tôi thấy lục bát của anh bộc lộ rõ nhất nhược điểm thích dùng chữ nghĩa của anh. Kiểu như:
- Gió dồn chồi sóng mọc lên
("Trăng Nha Trang")
- Đi trong lục bát bay vào thất ngôn
("Xuân Diệu - thơ anh tôi đọc")
- Tôi se khúc nhạc trắng phau tiếng đàn
("Tiếng đàn")
- Nông giang - mùa lúa lên rồi
Bóng em thuở ấy lại ngồi sinh thơ.
("Qua Thanh Hóa")
Trong khi đó Hải Bằng viết những vần thơ về kỷ niệm lúc cùng đi với anh trai (cả hai anh em đều đã bạc tóc và sống xa nhau đằng đẵng mấy chục năm trời) trên đường phố Huế, giữa "đêm mưa rơi" thì ta không còn nhìn thấy câu chữ, chỉ thấy nỗi lòng da diết của anh:
Có thật là ta khóc phải không
Nghe như giọt nắng nhói trong lòng
Một mai ngã xuống chân thành cũ
Thơ vẫn gọi đò trên bến sông
Ta như nghe trong những vần thơ ấy dư âm của thời gian, dư âm cuộc đời, dư âm của một tâm hồn chung thủy với thơ ca với nghệ thuật mặc dù anh phải trả giá một cách đau đớn. Vì lẽ đó mà khi đọc xong tập thơ của anh tôi cứ muốn chữa "Trăng đợi trước thềm" thành "Dư âm của biển". Tất nhiên đó là ý muốn hết sức chủ quan, biết đâu "Trăng đợi trước thềm" là một ẩn ý sâu xa của tác giả mà tôi chưa hiểu thấu. Cũng như thơ của anh làm sao ta có thể hiểu hết vì làm sao ta hiểu hết cuộc đời và tâm trạng của NHÀ THƠ!
Huế, tháng 8-1988
M.V.H
(SH34/12-88)
----------------
[1]. Nhân đọc tập thơ "Trăng đợi trước thềm" của Hải Bằng - NXB Thuận Hóa 1988.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.