Dòng thiền Việt do tổ Liễu Quán khai sáng

16:23 16/12/2016

Ở phía tây nam Kinh thành Huế, thuộc bờ nam sông Hương, có một dãy núi uốn lượn như mình rồng mang tên Long Sơn. Vùng long mạch này từ cuối thế kỷ 17 đã phát tích dòng thiền Việt do tổ Liễu Quán khai sáng.

Tháp tổ ngài Liễu Quán nhìn từ cổng chính vào - ẢNH: BÙI NGỌC LONG

Thâm nghiêm tháp tổ

Từ ngã ba đường Tự Đức -Thủy Dương thẳng lên khoảng 2 km là đến núi Thiên Thai, nơi có tổ đình Thiền Tôn và tháp tổ ngài Liễu Quán nằm ở ấp Ngũ Tây (xưa thuộc xã An Cựu, H.Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, nay thuộc P.An Tây, TP.Huế).

Ở Huế, ngoài lăng mộ của các bậc vua, chúa triều Nguyễn, hiếm thấy có khu lăng mộ nào được xây dựng với quy mô, kiến trúc đẹp và đầy đủ các yếu tố phong thủy như vậy. Tháp tổ được xây dựng vào tháng 4 năm Cảnh Hưng thứ 9 (1748), sau đó được tái thiết vào năm Gia Long thứ 14 (1815) và được trùng tu, xây dựng thêm la thành cùng các hạng mục khác qua các thời kỳ về sau.

Ngôi tháp tựa lưng vào núi, được bao bọc bởi tường thành cổ kính, phía trước là cổng tam quan với trụ biểu, câu đối. Bên trong khuôn viên của cụm công trình bảo tháp, ngay minh đường là một hồ bán nguyệt trồng sen, súng. Đường đi lên bảo tháp có nhiều bậc tam cấp rêu phong. Ngay chân tháp cổ là tấm bia đá, dòng lạc khoản ghi Sắc tứ Chánh Giác Viên Ngộ Liễu công Lão Hòa thượng chi tháp (Tháp của Lão Hòa thượng Liễu công, thụy hiệu là Chánh Giác Viên Ngộ). Văn bia ghi rõ hành trạng và tiểu sử của tổ Liễu Quán. Mặt trong la thành phía bên trái là một nhà bia, ghi: Khai Hoàng, Hậu Thổ, Nguyên Quân từ tọa chi vị (Bài vị thờ các vị Thành Hoàng khai canh khai khẩn, Thổ địa và tổ tiên các đời trước).

Chuyện trong khuôn viên tháp cổ của vị thiền sư có nhà bia thờ Thành Hoàng, Thổ địa này có lẽ liên quan đến một giai thoại về thiền sư Liễu Quán. Giai thoại kể rằng, sau khi lĩnh ngộ tâm ấn đạt đạo từ Tử Dung hòa thượng, vào năm 1708 thiền sư Liễu Quán đi vào chân núi Thiên Thai để ẩn danh, tham thiền. Ban đầu, ngài đến tá túc trong một ngôi miếu cổ thờ Thần Hoàng xóm Ngũ Tây, cách chùa Thuyền Tôn bây giờ độ vài cây số. Đêm hôm đó, các bô lão trong làng thấy vị Thần Thành Hoàng về báo mộng nói rằng kiếm chỗ khác để xây miếu cho ta vì miếu cũ ta đã nhường cho một vị Bồ Tát đắc đạo tu hành. Hôm sau, tờ mờ sáng, các vị bô lão trong làng đến ngôi miếu Thành Hoàng thì thấy đã có vị sư đang ngồi tham thiền. Từ đó họ đã đi làm ngôi miếu khác nhường chỗ cho vị sư tu hành.

Phát tích dòng thiền Việt

Hòa thượng Thích Thiện Siêu viết trong sách Lịch sử Phật giáo và nhân vật Phật giáo: thiền sư Liễu Quán quê ở làng Bạch Mã, H.Đồng Xuân, phủ Phú Yên. Ngài họ Lê, pháp danh Thiệt Diệu, hiệu Liễu Quán. Tu học từ thuở nhỏ, ngài tỏ ra thông minh khí tiết hơn các bạn đồng học. Mất mẹ năm lên sáu, theo ý nguyện của ngài, thân phụ ngài đã gửi đến chùa Hội Tôn thụ giáo với Tế Viên hòa thượng. Bảy năm sau Tế Viên hòa thượng tịch, ngài ra Huế vào chùa Hàm Long (tức chùa Bảo Quốc ngày nay) thụ học với Giác Phong lão tổ. Năm Tân Mùi (1691), sau khi xuống tóc được một năm, ngài được gọi về làng cũ để giúp đỡ phụ thân trong lúc già yếu. Nhà nghèo ngài phải đi hái củi bán lấy tiền lo thuốc thang. Bốn năm sau phụ thân qua đời, ngài lại trở ra Huế chính thức thụ giới Sa-di với Thạch Liêm Đại Sán hòa thượng. Năm Đinh Sửu (1697) ngài tiếp tục thụ giới với Từ Lâm lão hòa thượng. Năm Kỷ Mão (1699), ngài đi khắp Tòng Lâm thăm viếng nhiều chùa để học hỏi đạo lý và quyết định hiến thân cho đời sống đạo, chẳng quản đạm bạc gian lao.

Năm Nhâm Ngọ (1702) ngài đến Long Sơn đầu sư với Tử Dung hòa thượng (người sáng lập Ấn Tôn Từ Đàm hiện nay), một vị hòa thượng có tiếng thông thái khéo dạy người niệm Phật tham thiền đương thời. Trước khi chấp nhận ngài làm học trò, hòa thượng Tử Dung đã thử nhiều lần và bắt ngài giải đáp công án: “Muôn pháp quy về một, một về đâu?”. Ngài đã tìm kiếm 8, 9 năm không ra câu giải đáp và đã thất vọng.

Một hôm nhân đọc Truyền Đăng Lục, ngài gặp câu: “Chỉ vật truyền tâm, nhân bất hội xứ” (Chỉ vật truyền tâm, chỗ mà người ngoại cuộc không hiểu được), bỗng nhiên ngài thấy đã tìm ra câu giải đáp mà thầy mình đặt ra, nhưng vì đường sá xa xôi cách trở, không thể đến trình chỗ ngộ với thầy ngay được.

Năm Mậu Tý (1708) ngài đến Long Sơn (Huế) để đệ trình kết quả công án với Tử Dung hòa thượng. Sau nhiều vấn đáp, đến khi ngài đọc hai câu: “Sớm biết đèn là lửa, cơm chín đã lâu rồi”, hòa thượng mới tán thán.

Mùa xuân năm Nhâm Tuất (1742), ngài lại dự lễ giới đàn ở chùa Viên Thông. Cuối mùa thu năm ấy, ngài có chút bệnh, gọi môn đồ đến dạy rằng: “Nhân duyên ta đã hết, ta sắp đi đây”. Môn đồ kêu khóc ầm lên. Ngài lại bảo: “Các ngươi kêu khóc mà làm gì? Chư Phật ra đời còn nhập Niết bàn; nay ta đi lại rõ ràng, về ắt có chỗ, các ngươi không nên khóc lóc và đừng buồn thảm lắm”. Cuối tháng hai năm Quý Hợi (1743), trước mấy ngày tịch, ngài còn ngồi dậy vững vàng, tự cầm bút viết bài kệ từ biệt.

Cùng với vương triều nhà Nguyễn đóng đô ở phía bắc sông Hương, ở phía nam sông Hương lại có dòng thiền Lâm Tế, phát xuất từ thiền sư Liễu Quán với pháp kệ truyền thừa phát triển thiền môn. Hai dòng chảy song hành này đã làm nên vận mệnh văn hóa đặc thù của xứ Huế.

Nguồn: Bùi Ngọc Long - TN





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • CHU SƠN

    1.
    Này, xa là những cảm nhận chủ quan hàm chứa một góc nhìn giới hạn, tương đối và hoàn toàn xa lạ với những khẩu hiệu thời thượng là vĩnh cửu, muôn năm.

  • TRẦN VĂN DŨNG

    Cùng với rất nhiều nghề thủ công truyền thống trên đất nước Việt Nam, nghề Kim hoàn được biết đến với sự sáng lập của hai vị tổ sư Cao Đình Độ và Cao Đình Hương ngay trên vùng đất Cố đô. Tài năng của các ông đã biến nghề kim hoàn trở thành một nghề thủ công độc đáo, mang đậm sắc thái Việt và được truyền bá khắp ba miền đất nước trong hơn hai thế kỉ qua.

  • LÊ VĂN LÂN

    Hằng năm cứ vào dịp 9/1 (ngày sinh viên học sinh), ngày 26/3 (ngày thành lập Đoàn TNCS Hồ Chí Minh và giải phóng Huế), những người hoạt động trong phong trào (người ta thường gọi là “dân phong trào”) lại họp mặt tưởng nhớ những người hi sinh, ôn lại truyền thống, chia sẻ những trăn trở trước thời cuộc và tự dặn mình phải sống xứng đáng với những người đã khuất, những đùm bọc thương yêu mà nhân dân đã dành cho mình.

  • ĐÀO HÙNG
    (Nhân kỷ niệm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam)

    Hồi còn bé, đôi lần tôi được cha tôi là ông Đào Duy Anh, đưa đi chơi và có ghé thăm cụ Huỳnh Thúc Kháng. Rồi cũng có lần tôi thấy cụ Huỳnh đến gặp cha tôi ở ngôi nhà trên đường Hương Mỹ (nay là Chu Văn An), thành phố Huế.

  • LÊ MẬU PHÚ 
               Tùy bút 

    Sông Hương bắt nguồn từ dãy Trường Sơn, chạy dài hơn 60 cây số, qua nhiều rừng núi với thảm thực vật nhiệt đới đa dạng và nhận nhiều nguồn nước từ những con thác, rồi sau đó hợp lưu tại ngã ba Bằng Lãng thành một dòng sông, gọi là sông Hương. Từ đó, sông xuôi về biển thêm 30 cây số nữa.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    “Ơi khách đường xa, khách đường xa
    Dừng chân ghé lại Đông Ba chợ mình”

  • TRẦN NGUYÊN SỸ
                      Ghi chép

    Chúng ta thử hình dung Huế như một ngôi nhà cổ, mà con ngõ đón thập khách phía Nam là đoạn quốc lộ từ Thủy Dương xuống Phú Bài thì khỏi cần trả lời câu hỏi: Với Huế, Hương Thủy có quan trọng không?

  • HỮU THU - BẢO HÂN

    Không ít người ở Huế thế hệ sinh năm 1950 đã từng được ngắm cái điệu đà của rong rêu, sự bỡn đùa của từng đàn cá tung tăng theo chiều con nước sông Hương.

  • PHAN THUẬN AN

    Thái giám hay hoạn quan là những người đàn ông không có sinh thực khí, chuyên ở hầu hạ trong hậu cung của vua.
     

  • HỮU THU & BẢO HÂN

    Đường 12 được giới hạn từ ngã ba Tuần lên Bốt Đỏ. Chỉ kéo dài hơn 50 cây số nhưng đây là quãng đường không dễ vượt qua, bởi trước năm 1990, muốn lên A Lưới, từ Huế xe phải chuyển hướng ra Đông Hà, ngược đường 9, đến cầu Đakrong rẽ trái rồi men theo đường Hồ Chí Minh để vào. Thuở đó, đường xa, xe xấu nên cán bộ được phân công lên huyện vùng cao này ai cũng ái ngại và bỏ cuộc.

  • BÙI KIM CHI Tiên tổ phương danh lưu quốc sử Tử tôn tích đức kế gia phong

  • PHAN HƯƠNG THỦY Hệ thống lăng tẩm và Cung điện ở Huế luôn luôn là một đối tượng chính của các nhà nghiên cứu Mỹ thuật, và các nhà nghiên cứu lịch sử Huế đã để lại cho chúng ta những cái mà thời trước không còn.

  • Một số anh chị em ở Huế biết tôi có ghi chép được ít nhiều về Nguyễn Tuân, bảo tôi viết lại và gửi cho Tạp chí Sông Hương. Riêng tôi, muốn tạo một dịp để anh Nguyễn nói trực tiếp với bạn đọc Sông Hương, nên xin được hỏi anh Nguyễn chung quanh chuyện Huế, được anh Nguyễn nhận lời, tôi xin trung thành ghi lại toàn bộ cuộc trò chuyện đó.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANGHiếm nơi nào trên đất Huế có phong thủy hữu tình, trời, đất, nước, người cùng quyện hòa thanh thái trong một không gian xanh ngát xanh như đất thôn Vỹ. Đất này được dòng Hương Giang và phụ lưu Như Ý ôm trọn vào lòng như hai cánh tay của một người mẹ vỗ về.

  • TRẦN THÙY MAI Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế. Với tất cả mọi người, ai cũng thế, sau quê hương lớn là Tổ quốc Việt Nam, đều yêu và đều thích nói về quê hương nho nhỏ của mình, nơi đón tiếp mình từ lòng mẹ và cho mình những ấn tượng đầu tiên về thế giới. Hơn nữa, đó lại là một vùng đất hay được nhắc nhở và ngợi khen.

  • ĐỖ NAM Hàng trăm năm nay ai cũng biết đầm phá Tam Giang - Cầu Hai có 02 cửa thông ra biển: Thuận An và Tư Hiền.

  • BÙI MINH ĐỨC (Tiếp theo Sông Hương số 267, tháng 5 - 2011)

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌC(Kỷ niệm 95 năm ngày mất Thái Phiên - Trần Cao Vân: 17.5.1916 - 17.5.2011)                Bút ký

  • Bà Francoise Corrèze - đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, là một chiến sĩ chống phát xít, một người bạn của Việt Nam từ nhiều năm nay. Sau những chuyến đi thăm nước ta trong chiến tranh cũng như từ ngày đất nước thống nhất, bà đã viết nhiều tác phẩm về Việt Nam. Lần đầu tiên đến Huế đầu năm 1985, bà đã ghi lại những cảm nghĩ của mình. Chúng tôi xin giới thiệu một số đoạn sẽ được in trong cuốn sách viết về thanh niên Việt Nam bằng tiếng Pháp.

  • PHAN THUẬN ANNgọ Môn năm cửa chín lầu,Cột cờ ba cấp, Phu Văn Lâu hai tầng.