Dòng sông hoài niệm

10:51 01/09/2009
PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

Nhà thơ Đinh Lăng - Ảnh: tuoitre.com.vn

Nay có dịp đọc lại gần 40 bài thơ, chủ yếu đã từng được in trên các báo và tạp chí, tập hợp in thành tập Dòng sông về muộn (NXB Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh,2004), tôi bỗng nhận ra dòng chảy cảm xúc tươi mới, được thể hiện bằng một giọng điệu riêng của anh, in dấu chân dung tâm hồn của một thi nhân. Dòng sông về muộn là dòng chảy của một tâm hồn hoài niệm, một đường viền cuối chân trời xa tít tắp, là miền quê của ký ức tuổi thơ, bên mẹ, bên bạn bè, người thân, là những kỷ niệm năm tháng tuổi học trò khó phôi pha:

Những con đường học trò
Những con đường tuổi thơ
Là vòng xe qua, là tháng năm chẳng đợi
Để chiều nay ngẩn ngơ tiếc nuối
Những con đường đã xa ...
           
(Những con đường học trò)

Con người hơn loài vật chính là ở chỗ khi đã đi qua còn nhìn lại dấu chân mình. Đinh Lăng hay nhìn lại những con đường đã đi qua, hay hình dung về dòng sông đã trôi xa, hay chìm đắm trong những giấc mơ lung linh hư ảo của thời gian chưa xa mà trở thành quá khứ. Người làm thơ là người dễ cảm xúc, người yếu đuối nhẹ dạ; có khi tự đánh lừa mình, tự hư ảo hóa thực tại, cố hình dung ra một quá vãng xa xưa ngọt ngào trong ký ức; cũng có khi sống với quá khứ trong hiện tại hoặc sống với hiện tại trong quá khứ, về với quá khứ, cố đánh thức một miền quá khứ gần gũi mà xa xôi với bao tiếc nuối, buồn cũng mong manh mà vui cũng mong manh như mây khói:

Về lại miền quê, con đê con diều biếc
Tiếng dế than nức nở phía sau hè
Muốn bứt tóc câu từng con cun cút
Sợ đau lòng khi kỷ niệm về thưa

            (Về lại miền quê)

Con đường xưa, Những con đường học trò, Lối hoa vàng, Trở về, Biển ngày trở lại, Về lại miền quê, Về một dòng sông, Trở lại mùa đông, Cho ngày gặp lại rồi lại Chuyện cũ, Nguồn cội, Phố nhớ, Ký ức phố, Giấc mơ tuổi trẻ ... Chỉ đọc nhan đề các bài thơ cũng có thể thấy người làm thơ trẻ của chúng ta có tâm hồn thuộc về quá khứ, một cõi tâm hồn chất chứa nỗi hoài niệm nhớ mong, luôn có khát vọng trở lại, quay về. Nhưng, thời gian qua đi có bao giờ trở lại, có chuyến xe nào có thể đưa ta trở về miền quá khứ như một nhạc sĩ đa đoan đã từng mời? Người làm thơ trẻ đành tự âm thầm an ủi mình rằng:

Thôi hãy về đi mà tìm lại lối quen
Đừng mặc cả cùng thời gian được mất
Những ước mơ, khát khao và sự thật
Dòng đời xoay, theo quy luật vô thường

Con đường qua và ngoảnh lại con đường
Mùa lá xanh, mùa lá vàng rơi nhẹ
Nguồn cội êm đềm võ vàng trong mắt nhớ
Cứ vọng về trong thao thức đêm đêm
                       
(Nguồn cội)

Cũng có khi là chấp nhận từ phía ngã, chứ không phải sự oán trách vật. Bởi lẽ trong thế giới như tác giả nói là bị chi phối trong quy luật vô thường ấy, giữa ngã và vật đôi khi khó phân biệt, đành phải chấp nhận để vượt qua ngã ba của cuộc đời:
Có một con đường trong ta thật chậm
Có một ngã ba ở giữa chúng mình
Có một thời vô tư đến lạ
Những ngôi sao trong mắt lung linh

Giờ gặp lại - một dòng sông lỡ hẹn
Đêm có dài sao đủ nhớ nhung
Sớm mai lên ta về quê cũ
Chắc là em sẽ nhớ vô cùng ... !
                       
(Cho ngày gặp lại)

Người làm thơ bao giờ cũng có tâm trạng buồn, cũng tiếc nuối, luôn có cảm giác mình có lỗi với đời, với người, luôn chậm chân, trễ hẹn. Có khi ta thấy trong dòng chảy tâm hồn Đinh Lăng có một "Dòng sông về muộn", có "Một dòng sông lỡ hẹn" (Cho ngày gặp lại)," Chợt thương dòng sông chưa kịp trở về "bởi" có những nỗi buồn chưa kịp đặt tên" (Khúc hát cho mùa), bởi vì khi "Đối diện với nỗi buồn - Ta chợt hiểu mình hơn" (Đối diện với nỗi buồn). Sự chậm trễ, muộn màng đưa người thơ vào một cõi riêng, một thế giới riêng sống giữa bao người, không cô độc nhưng lại luôn có cảm giác cô đơn, không chỉ khi đối diện với lòng mình mà cả khi ngước nhìn đất trời, sông biển:

Dòng sông về muộn như chiều
Mình ta ngồi đợi liêu xiêu bóng gầy
Thoảng nghe sương khói đâu đây
Mưa giăng phố cũ, mưa bay qua đời
                       
(Dòng sông về muộn)

Thơ là nghệ thuật cao quý, là sự chắt lọc tinh túy đời sống. Người làm thơ không phải là người đùa chơi với ngôn từ mà còn là người có phép lạ, là một phù thủy có quyền năng, có trong tay mọi điều trong trời đất, có thể hô gió, gọi mây, làm mưa, ươm nắng. Nhưng khó khăn lớn nhất đối với họ là trong vốn ngôn từ hữu hạn, họ chọn nơi nào để đặt các vỏ ngữ âm có sức tạo nên sự sống cuộc đời. Thế hệ các nhà thơ trẻ bây giờ không đề cập đến các vấn đề lớn lao của vũ trụ, của thời đại, của chiến tranh, của số phận con người. Họ chỉ cài cảm xúc nhỏ nhoi của mình vào từng mắt của cuộc sống, làm óng ánh lên những hạt sáng lấp lánh, như những ngư dân kéo tấm lưới lên khỏi mặt sông còn lấp lánh những giọt nước trong nắng. Thơ Đinh Lăng cũng vậy, anh không quan tâm đến những vấn đề lớn lao, mà tìm đến những hồn nhiên tuổi ngọc, trong ký ức ấm nồng hơi thở của làng quê, của những miền đất anh từng đến. Đà Lạt, Quy Nhơn, Huế, Sông Cầu, nhất là với Tuy Hòa quê anh, cái thị xã nhỏ "Có những con đường chưa đi đã tới" (Thị xã bình yên), có khi sống trong phố mà lúc nào cũng nhớ phố:

Phố nhớ. Những con đường như bàn tay, một lần mân mê để rồi nhớ mãi. Nỗi nhớ như hương đồng gió nội, choáng ngập hồn, choáng ngập giấc mơ. Những dấu xe đi ngang về dọc. Bài tình ca mỏi gối chốn nào ... Phố nhớ ơi những bài hát lao xao. Em xõa tóc trong chiều thương mến. Đợi một ngày mai lẽ nào không đến ... Phố vẫn dặt dìu nỗi nhớ ta xưa ..." (Phố nhớ)

Những bài thơ hay trong tập như Ánh mắt, Phố nhớ, Dòng sông về muộn, Cho ngày mai gặp lại, Nguồn cội, Ký ức phố ... thể hiện được  dáng dấp  tâm hồn của một người làm thơ trẻ đã có vóc dáng đĩnh đạc, đàng hoàng, có tư thế có thể bước tiếp trên con đường thơ ca. Tất nhiên, không phải bài thơ nào cũng hay, nhịp điệu, câu chữ nào cũng đẹp. Với thơ, những dấu mốc đầu tay bao giờ cũng thô mộc, thậm chí đôi khi có cả vụng về, nhưng lại chứa đựng cảm xúc chân thành, mạnh mẽ, là tình cảm thật của tác giả chứ không là sự vay mượn những phép biến hóa của kỹ xảo, ngôn từ mang tính chất chuyên nghiệp. Điều đáng quý và đáng ghi nhận của Đinh Lăng là ở chỗ đó. Anh đến với thơ tự nhiên, vô tư, không vì điều gì quá lớn lao nghiêm trọng, mà đôi khi chỉ vì một nụ cười, một Ánh mắt như anh từng nói:

Ta bây giờ còn lại một bài thơ
Gửi lại bên sông xanh con thuyền phiêu bạt
Ánh mắt ấy - và đời ta luân lạc
Đến tận cùng cũng chẳng hiểu vì sao ...?

Những gì làm nên thơ Đinh Lăng chính là ở sự vô tư trong sáng, ở sự dấn thân "đến tận cùng cũng chẳng hiểu vì sao" ấy.

P.P.P
(187/09-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.

  • MAI VĂN HOAN giới thiệu Vĩnh Nguyên tên thật là Nguyễn Quang Vinh. Anh sinh năm 1942 (tuổi Nhâm Ngọ) ở Vĩnh Tuy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Bố anh từng tu nghiệp ở Huế, ông vừa làm thầy trụ trì ở chùa vừa bốc thuốc chữa bệnh cho người nghèo. Thuở thiếu thời anh đã ảnh hưởng cái tính ngay thẳng và trung thực của ông cụ. Anh lại cầm tinh con ngựa nên suốt đời rong ruổi và “thẳng như ruột ngựa”.

  • LGT: Vài năm lại đây, sau độ lùi thời gian hơn 30 năm, giới nghiên cứu văn học cả nước đang xem xét, nhận thức, và đánh giá lại nền “Văn học miền Nam” (1954 - 1975) dưới chế độ cũ, như một bộ phận khăng khít của văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với các mặt hạn chế và thành tựu của nó về nghệ thuật và tính nhân bản. Văn học của một giai đoạn, một thời kỳ nếu có giá trị thẩm mỹ nhân văn nhất định sẽ tồn tại lâu hơn bối cảnh xã hội và thời đại mà nó phản ánh, gắn bó, sản sinh. Trên tinh thần đó, chúng tôi trân trọng giới thiệu bài viết vừa có tính chất hồi ức, vừa có tính chất nghiên cứu, một dạng của thể loại bút ký, hoặc tản văn về văn học của tác giả Nguyễn Đức Tùng, được gửi về từ Canada. Bài viết  dưới đây đậm chất chủ quan trong cảm nghiệm văn chương; nó phô bày cảm nghĩ, trải nghiệm, hồi ức của người viết, nhưng chính những điều đó làm nên sự thu hút của các trang viết và cả một quá khứ văn học như sống động dưới sự thể hiện của chính người trong cuộc. Những nhận định, liên hệ, so sánh, đánh giá trong bài viết này phản ánh lăng kính rất riêng của tác giả, dưới một góc nhìn tinh tế, cởi mở, mang tính đối thoại của anh. Đăng tải bài viết này chúng tôi mong muốn góp phần đa dạng hóa, đa chiều hóa các cách tiếp cận về văn học miền Nam. Rất mong nhận được các ý kiến phản hồi của bạn đọc. TCSH

  • MAI VĂN HOAN giới thiệuNăm 55 tuổi, Hồng Nhu từng nhiều đêm trăn trở, băn khoăn lựa chọn việc trở về quê hay ở lại thành phố Vinh - nơi anh gắn bó trọn hai mươi lăm năm với bao kỷ niệm vui buồn. Và cuối cùng anh đã quyết tâm trở về dù đã lường hết mọi khó khăn đang chờ phía trước. Nếu không có cái quyết định táo bạo đó, anh vẫn là nhà văn của những thiên truyện ngắn Thuyền đi trong mưa ngâu, Gió thổi chéo mặt hồ... từng được nhiều người mến mộ nhưng có lẽ sẽ không có một nhà văn đầm phá, một nhà thơ “ngẫu hứng” như bây giờ.

  • LÊ HỒNG SÂMTìm trong nỗi nhớ là câu chuyện của một thiếu phụ ba mươi tám tuổi, nhìn lại hai mươi năm đời mình, bắt đầu từ một ngày hè những năm tám mươi thế kỷ trước, rời sân bay Nội Bài để sang Matxcơva du học, cho đến một chiều đông đầu thế kỷ này, cũng tại sân bay ấy, sau mấy tuần về thăm quê hương, cô cùng các con trở lại Pháp, nơi gia đình nhỏ của mình định cư.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

  • NGUYỄN VĂN HOATranh luận Văn Nghệ thế kỷ 20, do Nhà xuất bản lao động ấn hành. Nó có 2 tập: tập 1 có 1045 trang và tập 2 có 1195 trang, tổng cộng 2 tập có 2240 trang khổ 14,4 x 20,5cm. bìa cứng, bìa trang trí bằng tên các tờ báo, tạp chí có tư liệu tuyển trong bộ sách này.

  • VĨNH CAO - PHAN THANH HẢIVườn Thiệu Phương là một trong những Ngự uyển tiêu biểu của thời Nguyễn, từng được vua Thiệu Trị xếp là thắng cảnh thứ 2 trong 20 cảnh của đất Thần Kinh. Nhưng do những nguyên nhân lịch sử, khu vườn này đã bị triệt giải từ đầu thời vua Ðồng Khánh (1886-1889) và để trong tình trạng hoang phế mãi đến ngày nay. Trong những nỗ lực nhằm khắc phục các "không gian trắng" tại Tử Cấm Thành và phục hồi các khu vườn ngự của thời Nguyễn, từ giữa năm 2002, Trung tâm BTDTCÐ Huế đã phối hợp với Hội Nghệ thuật mới (Pháp) tổ chức một Hội thảo khoa học để bàn luận và tìm ra phương hướng cho việc xây dựng dự án phục hồi khu vườn này.