PHẠM TRƯỜNG AN
Ngày 1/12/2016, “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” chính thức được UNESCO công nhận là “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại”.
Tượng Mẫu Liễu Hạnh
Đây là niềm vinh dự và tự hào của nhân dân cả nước nói chung cũng như nhân dân Nam Định nói riêng. Đặc biệt với xã Kim Thái, huyện Vụ Bản, nơi được xem là trung tâm của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ trong cả nước.
Từ thế kỷ thứ XVII - XVIII (đời Lê Trung Hưng), trải qua hơn bốn trăm năm hình thành và phát triển, cho đến nay Đạo Mẫu Việt Nam đã chính thức được thế giới công nhận. Sự kiện này không chỉ đơn thần là niềm vinh dự, tự hào mà còn mang ý nghĩa lớn lao hơn, đó là sự khẳng định quốc tế về một hình thức tôn giáo Việt Nam. Một tôn giáo thuần Việt, không chịu ảnh hưởng, chi phối bởi các tôn giáo ngoại lai. Liễu Hạnh được tôn là Thánh Mẫu thần chủ, nhưng lại là một con người thực, có tên tuổi, cha mẹ, quê quán rõ ràng. (Tương truyền nàng là tiên nữ từ trên trời giáng thế). Thánh Mẫu là biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam với đầy đủ những phẩm chất cao đẹp, tài sắc vẹn toàn, hiền hậu nết na, hay lam hay làm, và khát vọng yêu đương đôi lứa thủy chung; hiếu nghĩa với cha mẹ, ông bà, tổ tiên; hết lòng giúp nước, cứu người, thực thi công bằng xã hội. Là tấm gương sáng cho mọi thế hệ noi theo.
Từ những phẩm chất cao đẹp ấy, Thánh Mẫu Liễu Hạnh đã được các triều đình nhà Lê, nhà Nguyễn vinh phong là: “Chế Thắng Hòa Diệu Đại Vương”, là “Mạ Vàng Công Chúa”, là “Thượng Đẳng Thần” và được xếp là một trong bốn vị thánh “Tứ bất tử” của Việt Nam. Nhưng cao hơn là được các triều đình và dân chúng tôn vinh là “Mẫu Nghi Thiên Hạ”.
Với lòng cảm phục, tôn kính từ Bắc vào Nam, từ miền xuôi tới miền ngược, nhân dân đã lập đền thờ phụng. Tập trung nhiều nhất ở tỉnh Nam Định, Thánh địa chính là xã Kim Thái, huyện Vụ Bản với quần thể gần hai mươi di tích lịch sử, văn hóa, trong đó có năm di tích từ thời Lê thờ Thánh Mẫu Liễu Hạnh, tạo thành một quần thể Di tích lịch sử văn hóa Phủ Dày rộng lớn, bao gồm Phủ Tiên Hương, phủ Vân Cát, Lăng Thánh Mẫu, Đền Nguyệt Du Cung và Khải Thánh Từ.
Có được một hệ thống đền, phủ thờ Mẫu đẹp đẽ, khang trang trải đều trong cả nước như hiện nay; ngoài công lao gìn giữ, tôn tạo và xây dựng của nhân dân nói chung, không thể không ghi nhận những đóng góp về tinh thần cũng như vật chất của các thủ nhang từ thời xa xưa đến nay. Họ là những người trực tiếp quản lý các đền phủ và tuyên truyền giáo lý Đạo Mẫu tới mọi người. Trong số đó tiêu biểu là thủ nhang đền Nguyệt Du Cung Trần Vũ Toán. Ông là hậu duệ đời thứ tư của dòng họ Trần Vũ liên tục làm thủ nhang của ngôi đền này. Cụ tổ Trần Vũ Đa, nguyên gốc là họ Vũ, đời Lê Cảnh Hưng (1740 - 1783) chuyển từ làng Đại Đồng, huyện Phú Xuyên, trấn Sơn Nam (nay thuộc thành phố Hà Nội) dời cư về sinh sống ở làng An Thái. Làng này xưa chỉ duy nhất có một họ Trần và quy định tất cả những người dân di cư đến đây phải đổi họ, nên họ Vũ được đổi thành họ Trần Vũ. Trần Vũ vốn là dòng họ Nho học, nhiều đời theo nghiệp bút nghiên, đa phần làm nghề dạy học, làm nghề thầy thuốc, thầy cúng. Ông Trần Vũ Đa người có đủ phẩm chất đạo đức của bậc Nho học nên được dân làng cử ra làm thủ nhang đền Nguyệt Du Cung và dân làng gọi ông là ông Đồng Đa.
Theo truyền thuyết vào ngày mồng Ba tháng Ba năm Đinh Sửu (1577) đời vua Lê Thế Tông, tại đây: xứ Cây Đa, thôn Tây La Hào, Thánh Mẫu đã hóa thân về trời ở tuổi 21. Tương truyền vào những đêm rằm trăng sáng, Thánh Mẫu thường cùng các tiên nữ về quây quần bên gốc cây đa múa hát, ngâm thơ vịnh nguyệt, gần ngôi mộ đất của mình. Chính vì thế nơi đây đã trở thành vùng đất thiêng, như câu đối chạm đá trong lăng Thánh Mẫu đã ghi rõ:
“Thiên Bản địa linh lưu Thánh tích
Nguyệt Du thủy hoạt tổ tiên nguyên”
Dịch nghĩa:
“Thiên Bản đất thiêng in dấu Thánh
Nguyệt Du nước chảy dõi nguồn Tiên.”
Nhận được sự tín nhiệm, giao phó của dân làng, ông Đồng Đa đã bắt tay ngay vào công việc. Ông cùng ni sư Cao Thị Cẩn thủ từ đền An Thái (tức Phủ Tiên Hương) tiến hành mở rộng các đền phủ trong quần thể Phủ Dày, đặc biệt tôn tạo đền Nguyệt Du Cung từ một ngôi miếu nhỏ đơn sơ thành một ngôi đền lớn, có hậu cung ba gian và cung ngoài năm gian, trùng thềm bằng gạch đỏ. Đền nằm dưới bóng cây đa lớn, cành lá xum xuê, dân quanh vùng quen gọi là Đền Cây Đa Bóng.
Ông Đồng Đa có hai con trai là Trần Vũ Cư và Trần Vũ Thực đều được học nho y, lý số đầy đủ. Ngoài việc hàng ngày dạy học trong làng, hai ông còn phụ giúp cha đèn nhang thờ cúng tại đền.
Khi ông Đồng Đa qua đời, hai con tiếp tục sự nghiệp của cha và đã làm được nhiều việc lớn có ý nghĩa. Tiếp tục tôn tạo, nâng cấp và mở rộng đền Nguyệt Du Cung thành ba cung lớn, lộng lẫy. Xây dựng tam quan có lầu gác chuông hoành tráng, trang nghiêm. Cho đúc tượng đồng Thánh Mẫu Liễu Hạnh để thờ. Với sự giúp đỡ của Tham tá Công chính Hồ Trọng Lẫm về thiết kế và trực tiếp làm đốc công, sự hảo tâm đầu tư ngân phiếu của đệ tử Đào Chi ở Huế, anh em Trần Vũ Cư và Trần Vũ Thực cùng với nhân dân và các đệ tử xa gần đã hoàn thành việc xây dựng lăng Mẫu vào năm 1938. Công trình được xây dựng hoàn toàn bằng đá đồ sộ, uy nghi với sáu mươi câu đối được khắc trên các cột đá, mang nụ sen ca ngợi công đức của Thánh Mẫu. Khuôn viên xung quanh lăng được trồng nhiều loại hoa và những cây thuốc quý.
Không lâu sau đồng đền Trần Vũ Cư qua đời, công việc được giao lại cho Trần Vũ Thực quán xuyến. Trần Vũ Thực không những tiếp tục tôn tạo mở mang công trình mà còn rất chú trọng thu thập lại những đồ thờ cúng bị thất lạc và mua sắm thêm nhiều đồ thờ cúng mới bằng sứ, bằng đồng như: bát hương, chuông, khánh, trống đồng, v.v. Bản thân Trần Vũ Thực còn dâng cúng ruộng đất và nhiều đồ vật quý cũng như công sức tiền bạc cho các đền phủ trong tỉnh Nam Định cũng như các tỉnh ngoài như Bắc Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh… Ông dành nhiều thời gian nghiên cứu kinh sách để thấm nhuần hơn về Đạo Mẫu. Chính vì thế tại hội thi Đồng quan tổ chức ở Đền Ghềnh - Thiên Tiên Từ (thuộc xã Lâm Du, huyện Gia Lâm, Hà Nội), ông được tôn là Đồng quan, được ghi phẩm danh trong văn bia tại đền Mẫu Thoải năm Tân Hợi (1911) đời vua Duy Tân. Năm Ất Sửu (1925) ông Trần Vũ Thực được mời vào Huế xây dựng Thiên Đàn Phổ Hóa cung ở chùa Bảo Quốc.
Cả cuộc đời tâm thành thờ Mẫu của Đồng quan Trần Vũ Thực đã được con cháu phát huy. Hậu duệ của ông là Trần Vũ Toán kế nghiệp thủ nhang đền Nguyệt Du Cung. Nhận vinh dự đó, ông Trần Vũ Toán ý thức được niềm vinh dự và trách nhiệm nặng nề mà ông phải gánh vác.
Trải qua những biến cố lịch sử, thiên tai, địch họa liên miên và từ con người do không nhận thức đầy đủ về Đạo Mẫu mà gây nên khiến cho Nguyệt Du Cung xuống cấp nghiêm trọng. Do vậy việc cấp thiết phải làm là tranh thủ sự ủng hộ của các cấp chính quyền, đoàn thể và nhân dân, của đệ tử thập phương khẩn trương tôn tạo, mở rộng đền, trồng thêm vườn hoa, cây cảnh cho xứng với tầm vóc vốn có của công trình. Điều thủ nhang Trần Vũ Toán đặc biệt quan tâm là bằng mọi hình thức tuyên truyền, phổ hóa lịch sử để mọi người hiểu sâu sắc hơn về Đạo Mẫu, về Thánh Mẫu Liễu Hạnh. Đồng thời tạo điều kiện thuận lợi nhất về nơi ăn, chốn ở cho du khách gần xa đến thăm viếng, cho các đệ tử an lòng khi về với Nguyệt Du Cung là về với ngôi nhà của Mẹ, được sống trong vòng tay nhân ái chở che của Mẹ. Mọi nghi thức dâng lễ Mẫu được thủ nhang hướng dẫn từng chi tiết cụ thể cho các đệ tử, tránh lãng phí, mê tín dị đoan. Nhà đền không đặt ra một yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc nào, gây khó khăn cho các đệ tử.
Một phần Phủ Bóng (Nguyệt Du Cung) là nơi thờ Hội đồng các bóng, các giá. Người có đồng phải trình đồng ở đây trước khi hầu đồng ở các phủ trong quần thể Phủ Dày, do vậy mà các đệ tử trong cả nước về đây lễ Mẫu và hầu đồng rất đông, một phần cũng bởi uy tín, đạo đức, thiện tâm của Trần Vũ Toán thủ nhang của ngôi đền này.
Với cảnh quan tâm linh tín ngưỡng rộng rãi trang nghiêm, Nguyệt Du Cung đã trở thành nơi lý tưởng để tổ chức các hội nghị, hội thảo về tâm linh trong nước cũng như quốc tế. Năm 2010, tại đây đã diễn ra Hội thảo quốc tế về đề tài “Nghiên cứu khả năng đặc biệt của con người trong hệ thống Đạo Mẫu Việt Nam”. Năm 2012, Hội thảo khoa học quốc tế “Nữ Thần (Mẫu) - Bản sắc và giá trị”, do Trung tâm bảo vệ Di sản Văn hóa Dân gian Việt Nam tổ chức, có diễn xướng hát chầu văn, hầu bóng. Hơn 10 đoàn đại biểu, các nhà nghiên cứu nước ngoài về Nữ Thần (Mẫu) đã đến dự đánh giá rất cao giá trị văn hóa thờ Mẫu của người Việt. Năm 2012 tỉnh Nam Định tổ chức cuộc thi hát văn, hầu đồng tại đây. Năm 2016, Hội thảo khoa học quốc tế: “Nghiên cứu thực hành tín ngưỡng trong xã hội đương đại - trường hợp tín ngưỡng thờ Mẫu.”
Thủ nhang Trần Vũ Toán không giấu điều mà ông tâm niệm là làm sao luôn có sức khỏe dồi dào để ngày đêm hương đăng thờ Mẫu. Giáo dục gia đình, con cháu uống nước phải nhớ nguồn, luôn học hỏi, tu thân để góp phần gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa của dân tộc, nối dõi truyền thống của dòng họ Trần Vũ đã bốn đời được nhân dân và các đệ tử tín nhiệm trao giữ cương vị thủ nhang Nguyệt Du Cung, một ngôi đền lớn trong quần thể “Di sản văn hóa phi vật thể đại diện nhân loại”.
P.T.A
(SHSDB27/12-2017)
PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.
LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT
HUỲNH ĐÌNH KẾT
Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.
LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…
NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.
NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.
NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...
HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.
BEATRICE KALDUN (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.
PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.
PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.
NGUYỄN VĂN MỄ (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.
LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.
NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)
NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.
PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.
TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.
TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.
PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...
BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.