Đông Hà - cây bút thơ nữ triển vọng của miền Trung

08:39 04/02/2010
NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.

Nhà thơ Đông Hà

Tháng Tám 1999 vừa rồi, Đông Hà trình làng thơ đầu tay của mình có tên là Thơ Đá, cũng là thời điểm chị trở thành cô giáo dạy văn trẻ nhất Trường Quốc Học Huế!

Khác với một vài cây bút thơ trẻ trong Nam ngoài Bắc, người thì gào lên cơn khát tình, nỗi đơn côi tuyệt vọng với thứ ngôn ngữ bốc lửa, bạo dạn đến mức làm không ít độc giả phát "ngượng", người thì lao vào việc "làm khó", làm rối rắm thêm câu chữ để tự bốc thơm mình là cách tân, đổi mới thơ;... thơ Đông Hà chỉ thầm thỉ tâm sự, tâm tình. Tâm sự với mình, với người yêu, với quê hương, với thời gian và không gian ký ức. Tâm sự bằng cái tôi chất chứa tâm trạng luôn đòi được giải bày, chia sẻ. Tâm sự về Tuổi thơ của mình, Đông Hà viết: Tôi thơ dại bắt con cò bỏ chợ / Cổ ngóng trơ vơ - nhớ thuở mẹ đi rồi / Mùa đông năm xưa nghèo hơn hơi ấm... Có lẽ nỗi đau vì phải xa mẹ quá sớm ấy đã thành vết sẹo tâm hồn, thành nỗi buồn trĩu câu thơ, mọt nỗi buồn thấm đẫm tình người:

                        Mùa đông qua sông in thêm vầng trăng vỡ
                        Tuổi thơ tôi qua bao chợ xứ người
                        Để đêm nay có vì sao vời vợi
                        Đổi ngôi cho người rồi lặn xuống sông trôi
...
                                                            (Tuổi thơ)

Dù tuổi còn rất trẻ (năm nay mới 23), Đông Hà có rất nhiều những bài thơ, câu thơ chất chứa sự trải nghiệm, đọc lên nghe nặng nỗi đời: Tôi đếm bàn tay nhặt đời dâu bể / Những dại khôn rơi vãi trắng tươm đồng. (Tình chi) Hay: Giờ tôi cười nụ không công / Đò ngang không bãi chở lòng không neo (Cổ tích) Hay: Bóc bình minh nhìn đâu cũng thấy / Những nỗi niềm mưa vãi nắng tuôn (Gió hồng).v.v... Cái chất ưu tư "già trước tuổi" ấy không phải là sự bắt chước hay "cố tạo ra" theo mốt thơ trẻ thời thượng mà nói rất chân thành bởi nó có căn nguyên từ nỗi đau riêng cộng với sức cảm nhận từ vốn sống, vốn đọc của người viết. Thơ viết về tâm trạng thực, về thân phận con người trước những cơn cuồng phong của nhân tính đọc lên nghe nhói lòng. Đó là những câu, mạch thơ đáng tin cậy, đáng trân trọng, bởi cánh cửa hạnh phúc luôn hẹp, cuộc sống không dễ dàng với bất cứ ai!

Thơ về tình yêu đôi lứa bao giờ cũng là "đề tài" chính của các cây bút trẻ. Họ viết về những mối tình của chính mình. Các cung bậc thơ tình yêu thường là gặp gỡ, yêu thương, nhớ nhung, giận hờn, chia ly... Thơ Đông Hà cũng mang đặc điểm chung đó. Tuy nhiên cái khác trong thơ tình của cây bút thơ nữ trẻ này là sau giây phút nồng nhiệt của tình cảm là cái "giật mình ngoảnh lại" của sự chiêm nghiệm nhói buốt, rất đời: "Tiễn đưa bóng cũ qua cầu / tiễn luôn mình giữa cơi trầu chưa têm" (Tiễn đưa). Một nét lạ của thơ tình Đông Hà đã trở thành đặc điểm riêng của thơ chị trong đội ngũ các cây bút thơ nữ không nhiều ở miền Trung, được người đọc dễ đồng cảm là người viết không ca tụng tình yêu một chiều mà luôn tỏ ra sợ hãi, cật vấn, bỡn cợt, đùa dỡn, chì chiết tình yêu, cứ như mình là người thừa biết, thừa trải mọi cạm bẫy, móng vuốt và sự đỏng đảnh của con tình: "Tôi về gom lại thư xưa / Thủy chung như thể trò đùa lăn ra..." hay "Buồn xong rũ một trận cười / Buồn đơm mấy quả đi mời nhân gian", hay "Lỡ tay đánh vãi nắm vừng / Lỡ duyên em nhặt đến chừng nào xong"... hay"Pha nước mắt cả tiếng cười". Đùa mà không đùa. Thơ như thế là thơ của tấm lòng yêu thật, yêu và dám chấp nhận tình yêu:

                        Thì bán cho người luôn cả lòng tin
                        Tươi hơn cỏ, úa hơn màu khói thuốc
                        Tôi trở về lấp nỗi sầu bằng muôn vàn mảnh kính
                        Vỡ ra trong trái tim mình

Có lẽ từ nhỏ Đông Hà đã thấm thía nỗi đắng cay của tình yêu qua bài học riêng ám ảnh đời mình, nên lớn lên vào tuổi yêu, thơ Đông Hà "chín sớm" trước những cảm xúc tuổi trẻ. Bởi vậy mà Đông Hà thấu rõ "Tình yêu xanh buốt lòng thiếu nữ".

Thơ Đông Hà còn "chín sớm" trong ngôn ngữ và cách tu từ. Thơ chị đã có không ít câu đa nghĩa, biết nhòe mờ khi cần thiết. Một số câu thơ đã có thể đứng độc lập, ít câu kể kiểu văn xuôi. Đông Hà rất dễ thương trong cách biến danh từ thành động từ: "Em gương lược với người ta đèo bòng" hay sự ví von tinh tế: "Lòng tôi một khoảng sân chùa / Bàn chân thơ dại bước thừa vào rêu". Sự chân tình trong tình cảm trong thơ Đông Hà được khẳng định hay được nhân lên trong âm hưởng ca dao nhuần nhị: Về đây hát tròn câu ví / Rằng yêu xui nhớ đi tìm", hay "Đem lòng níu ngọn sầu đông / Rơi bên bãi vắng ba đồng một duyên..."..v.v.

Còn quá sớm để bàn sâu về một cây bút trẻ. Hơn nữa cũng như thơ của nhiều bạn trẻ khác, thơ Đông Hà còn không ít câu chữ vội vàng thiếu cảm, viết lấy được, hay nhiều khi nói bộ đầy lý tính, khô khan: "Cớ gì đánh đổ niềm tin / Khi tình yêu không hề có mặt / chúng ta cùng rơi từ nơi sâu nhất / mượn trái tim làm chỗ dựa trên đời.. "hay" Chẳng cần đến dòng sông / thì em cứ khóc / thôi phần nào đau nhất / hãy trả về anh.".v.v... Mặt khác thơ Đông Hà còn quá hẹp về đề tài. Phải mở rộng tối đa biên độ cảm xúc, thơ mới khai thác hết cái tôi đa nghĩa, đa thanh của mình, mới trở thành hơi thở của thời đại v.v... Dẫu thế, Đông Hà đã khởi đầu nghiệp thơ đầy ấn tượng. Mười tám tuổi (1994) đã giành giải thưởng cuộc thi thơ "Bút mới" Báo Tuổi trẻ thành phố Hồ Chí Minh; năm hai mốt tuổi (1997) nhận giải thưởng cuộc thi "Thơ tình lục bát" của Báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức; năm hai mươi hai tuổi được tặng thưởng "Tác phẩm tuổi xanh" Báo Tiền Phong. Giải thưởng chẳng nói được điều gì lớn đối với một nghiệp thơ. Nhưng với một cây bút trẻ sớm có giọng điệu riêng như Đông Hà, những giải thưởng trên như là một sự đánh giá, phát hiện!

Tôi tin rằng với thời gian, Đông Hà sẽ chín hơn trong thơ.

N.M
(131/01-2000)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HỒNG DIỆUNhà thơ Cao Bá Quát (1809-1854) được người đời hơn một thế kỷ nay nể trọng, với cả hai tư cách: con người và văn chương. "Thần Siêu, thánh Quát", khó có lời khen tặng nào cao hơn dành cho ông và bạn thân của ông: Nguyễn Văn Siêu (1799-1872).

  • HÀ VĂN THỊNHI. Có lẽ trong nhiều chục năm gần đây của lịch sử thế giới, chưa có một nhà sử học nào cũng như chưa có một cuốn sách lịch sử nào lại phản ánh những gì vừa xẩy ra một cách mới mẻ và đầy ấn tượng như Bob Woodward (BW). Hơn nữa đó lại là lịch sử của cơ quan quyền lực cao nhất ở một cường quốc lớn nhất mọi thời đại; phản ánh về những sự kiện chấn động nhất, nghiêm trọng nhất đã diễn ra trong ba năm đầu tiên của thiên niên kỷ mới: sự kiện ngày 11/9, cuộc chiến tranh Afganistan và một phần của cuộc chiến tranh Iraq.

  • ĐẶNG TIẾN     (Đọc Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp)Một tờ báo ở ngoài nước đã giới thiệu bốn cuốn hồi ức của Đại tướng Võ Nguyễn Giáp mới xuất bản. Dĩ nhiên là một bài báo không thể tóm lược được khoảng 1700 trang hồi ký viết cô đúc, nhưng cũng lảy ra được những đặc điểm, ý chính và trích dẫn dồi dào, giúp người đọc không có sách cũng gặt hái được vài khái niệm về tác phẩm.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO       (Đọc tập truyện ngắn “Trà thiếu phụ” của nhà văn Hồng Nhu – NXB Hội Nhà văn 2003)Tôi đã được đọc không ít truyện ngắn của nhà văn Hồng Nhu và hầu như mỗi tập truyện đều để lại trong tôi không ít ấn tượng. Trải dài theo những dòng văn mượt mà, viết theo lối tự sự của nhà văn Hồng Nhu là cuộc sống muôn màu với những tình cảm thân thương, nhiều khi là một nhận định đơn thuần trong cách sống. Nhà văn Hồng Nhu đi từ những sự việc, những đổi thay tinh tế quanh mình để tìm ra một lối viết, một phong cách thể hiện riêng biệt.

  • ĐỖ QUYÊN…Đọc thơ Bùi Giáng là thuốc thử về quan niệm thơ, về mỹ học thi ca. Đã và sẽ không ai sai nhiều lắm, cũng không ai đúng là bao, khi bình bàn về thơ họ Bùi. Nhắc về cái tuyệt đỉnh trong thơ Bùi Giáng, độ cao sâu tư tưởng ở trước tác Bùi Giáng nhiều bao nhiêu cũng thấy thiếu; mà chỉ ra những câu thơ dở, những bài thơ tệ, những đoạn văn chán trong chữ nghĩa Bùi Giáng bao nhiêu cũng bằng thừa…

  • LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

  • NGÔ MINHĐến tập thơ chọn Giếng Tiên (*), nhà thơ - thầy giáo Mai Văn Hoan đã gửi đến bạn yêu thơ 5 tập thơ trữ tình, trong đó có hai tập thơ được tái bản. Đó là tập đầu tay Ảo ảnh, in năm 1988, tái bản 1995 và tập Hồi âm, in năm 1991, tái bản năm 2000. 15 năm xuất bản 7 đầu sách (2 tập tiểu luận) và đang có trong ngăn kéo vài tập bản thảo tiểu luận nữa, chứng tỏ sức sáng tạo sung mãn đáng nể trọng của một thầy giáo vừa dạy học vừa sáng tác văn chương.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO        (Đọc tập thơ ''Độc thoại trước mặt trời'' của Trần Lan Vinh- NXB Văn học Hà Nội- 2003)Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, sự thiếu vắng những cây bút nữ đã trở thành một vấn đề cần được chú trọng. Hầu như mỗi khi phụ nữ cầm bút, điều họ quan tâm nhất đó là sự giải bày tâm sự với ngàn ngàn nỗi niềm trắc ẩn. Nếu viết là một cách để sẻ chia tâm sự thì Trần Lan Vinh là một trường hợp như thế.

  • NGUYỄN THANH TÚMùa đông năm ngoái, anh Đoàn Tuấn từ Hà Nội vào Huế giảng dạy lớp đạo diễn điện ảnh. Dù công việc khá bận rộn nhưng anh vẫn dành cho tôi không ít thời gian tâm sự, bởi ngoài tình cảm thân thiết anh còn là cấp trên của tôi ở toà soạn tạp chí Thế Giới Điện Ảnh. Trong những lần trò chuyện ấy, tôi thật sự bất ngờ khi nghe anh kể chuyện về cuốn sách anh sắp in ở Nhà xuất bản Trẻ mà nội dung của nó là câu hỏi hơn 20 năm nay vẫn luôn canh cánh trong tôi. Vốn dĩ Đoàn Tuấn là nhà biên kịch điện ảnh tên tuổi, anh đã có nhiều kịch bản phim nổi tiếng như: Chiếc chìa khoá vàng (1998), Ngõ đàn bà (1992), Đường thư (2003)...

  • MAI VĂN HOANNguyễn Khoa Điềm đến với thơ hơi muộn nhưng đã sớm định hình một phong cách riêng. Qua các tập Đất ngoại ô (1972), Mặt đường khát vọng (trường ca, 1974), Ngôi nhà có ngọn lửa ấm (1986), Thơ Nguyễn Khoa Điềm (1990), Cõi lặng (2007) ta bắt gặp những suy ngẫm của anh đối với nhân dân, đất nước; những chiêm nghiệm của anh về đời sống xã hội, nhân tình thế thái. Những chiêm nghiệm và suy ngẫm đó được thể hiện bằng một giọng thơ trầm tĩnh, bình dị, sâu lắng và khá hiện đại.

  • NGUYỄN QUANG HÀ       (Đọc Nỗi niềm để ngỏ của Lê Lâm Ứng - Nhà xuất bản Văn học 2002)Đọc thơ Lê Lâm Ứng để tìm những câu mượt mà thì hơi khó. Thảng hoặc lắm mới bắt gặp ở anh tâm trạng thư thái này:                Biết rằng trong cõi nhớ thương                Lạc nhau âu cũng lẽ thường vậy thôi

  • MAI VĂN HOANNguyễn Đắc Xuân không chỉ có chân trong Hội Nhà văn Việt Nam mà anh còn là hội viên Hội Lịch sử Việt Nam, hội viên Hội Nhà báo Việt Nam... Nhưng dù ở cương vị nào thì điều mà anh tâm huyết nhất vẫn là lịch sử và văn hóa Huế.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG   (Nhân đọc sách "Gió về Tùng Môn Trang" của Nguyễn Xuân Dũng)Tác giả cuốn sách này là một võ sư đệ bát đẳng huyền đai thuộc phái không thủ đạo, vừa là một nhà hoạt động thương trường nổi tiếng ở Mỹ. Nhưng cuốn sách này không hề bàn đến chuyện đấm đá hơn kém hoặc là chuyện mua bán lời lỗ mà bàn về cái TÂM. Tác giả tỏ ra hết sức chú trọng vũ đạo; nhất cử nhất động đều phải xuất phát từ cái TÂM, cái TÂM viết hoa.

  • TRẦN THUỲ MAI            (Đọc Uẩn khúc, tiểu thuyết của Hoàng Văn Bàng, NXB Thuận Hoá 2002)Câu chuyện xảy ra ở một vùng quê không xa lắm, với một tầm mức tai hại không lớn, gây một ảnh hưởng mới xem qua tưởng chừng không đáng kể. Một ông trưởng phòng ở huyện tham ô vài chục triệu thì đã thấm gì so với những câu chuyện động trời hàng ngày trên các báo, mà thủ phạm mang những chức tước lớn lao hơn, với những số tiền khổng lồ tới hàng nghìn tỉ!

  • MAI VĂN HOAN         (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!

  • PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận                  (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).

  • TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.

  • NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ           (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.

  • Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.