PHẠM QUYÊN CHI
Tâm lí học cổ điển đã xây dựng nên sơ đồ quy nạp của quá trình hình thành các đơn vị cơ bản của tư duy - và khái niệm duy lí gắn liền với từ.
Ảnh: internet
Nguồn gốc đầu tiên để xuất hiện suy nghĩ là cảm giác. Các cơ quan cảm giác tiếp xúc với thế giới xung quanh, đem lại cho con người những tri thức về vật thể của thế giới bên ngoài. Không bối cảnh hiện thực, Hạ Vi, cô ấy bước vào công việc hóa giải tình yêu siêu hình. Trong đó, tình yêu (sự thiện) thuộc về hữu, bắt nguồn rễ trong siêu việt thể. Những con chữ của chị như gõ tiếng cửa bằng âm thanh khi con người thức tỉnh, sự hữu đó, ghi lại trong ý thức họ vết tích một ý nghĩa sâu thẳm và bất tận vượt lên trên mọi ý nghĩa khác. Chọn tình yêu - bởi lòng căm thù đang rầm rộ gieo rắc nỗi buồn và tai họa, giết chết sự hữu trong trần gian. Tính ghét luôn là nguy cơ, nên câu thơ chị luôn chiến thắng sự do dự:
“Trái tim thiện lương
Bao dung dưỡng nuôi mầm cảm xúc
Triền cỏ nhòa phủ lấp
Biển nghiêng mình nuốt dấu chân anh vẫn xanh”
(Xanh)
Bình diện siêu việt thể luôn phục hồi khả năng trong tình yêu, đảm bảo cho một luân lí, đời sống có tình yêu là luôn đúng. St - Augustin “Hãy yêu đi rồi làm gì làm!”, hay chính Plotin một triết gia thần bí đã từng mô tả: “Đôi khi thoát được thể xác ngái ngủ và thức tỉnh lại trong bản ngã, tôi thấy lóe sáng một vẻ đẹp phi thường. Chính những lúc ấy, tôi mới tin chắc được rằng: tôi sống ở một thế giới tốt đẹp và cao cả hơn, rồi tôi thấy trào vọt lên một sức sống mạnh mẽ tột bực”. Đọc to dần những câu thơ Hạ Vi hay đọc rõ hơn lại những gì xảy ra trong tính phân ly thì ẩn đằng sau điều tưởng rằng không giải thích nổi lại là dòng ý thức uy lực biến thành siêu hình tinh thần. Tự thân đầy đủ lớp nghĩa giúp ta nhận thức bằng hiện sinh ta chứ không phải bằng trí năng và biết đâu từ nay, con người không nên bỏ qua yếu tố tượng trưng. Tình yêu là con đường gãy khúc không sửa thẳng được nữa, giống cách người ta đoán định, suy tư triết học. Nó còn hiện diện trong tâm hồn và muốn thấy cần phải sáng suốt nghĩa là Hạ Vi đã lí hội qua hình thức khách quan:
“Sinh nhật 911
Một năm trước ngày thế giới đảo lộn
Bởi những chiếc máy bay
ảo ảnh hứng đầy tay
mê rồi lại tỉnh
đập nát phá tung
bạn bè xa lánh
cơ cực hình hài
đêm trăng tròn mùa thu
sinh nhật âm năm nay
em gặp anh
anh bình tĩnh ngỏ lời yêu
sẽ là hạnh phúc trăm chiều
hay tận cùng đau khổ
em mở lòng đón nhận
và được sống hơn một lần
và được có anh…”
Mỗi nét nghĩa tái hiện tình yêu, trong các tri giác trí nhớ làm nảy sinh định hướng, em đã đi đến hình tượng anh. Em và anh, tính liên kết bằng từ, đã tác động cảm giác. Cấu trúc thơ đi theo thuyết cảm thán, từ ngữ ấy mang tính võ đoán “hạnh phúc” hình thành bản tính chung tự nhiên của con người “được có”. Xét dưới góc độ ý nghĩa chứa đựng, em trong tính phân định - đã thống nhất về mặt tâm lí, âm hưởng của bài thơ thuộc về tính chất ước lệ. Tình yêu ấy, không hề đơn giản và bẩm sinh, phán đoán như phản xạ cảm giác. Trong bài “Lá thư gửi ngày độc lập” giống như một văn bản phục nguyên (phục lại nét ngôn ngữ thực sự) mà Sleikher tạo ra mô hình lý thuyết phục nguyên các thuộc tính ngôn ngữ nhất định phản ảnh được bản chất ngôn ngữ thì Hạ Vi tạo ra tư duy trừu tượng (vị tính) giống trò chơi - sự nghỉ ngơi của tín hiệu ngoài ngữ cảnh, mang lại tính biểu cảm cao:
“Anh thực dân em
Tỉ tê bụi mưa âm thầm chiếm đất
Chất nhớ chở thương bằng câu chữ màu sắc
Chiều Hà Nội buồn
…
Em thực dân anh
Lấp đầy hờn ghen khoảng trống
Thả con sáo xa hót véo von kỳ vọng
Mây NoVa Scotia trắng
Biển Mahoney đá sỏi cười
Những dòng thư đưa cay
…
Ngày độc lập
Anh ngậm ngùi thoát ách thực dân
Nghe chừng luyến tiếc
…
Có cô gái nào thực dân như em
Có cô gái nào yêu anh hơn em”
…
Kiểu lời nói phân tiết, tạo ra dòng ý thức trừu tượng, còn tạo ra cả biểu tượng. Như Potebnja về sáng tác thơ ca là động lực phát triển ngôn ngữ. Mà đâu đó, Sakhmatov đưa ra cách giải quyết khác về cơ chế tâm lí lời nói. Vậy, Hạ Vi chị ấy, trên nền liên tưởng cấu trúc thơ áp dụng lời nói và cả ý nghĩa tu từ đã không mất đi tính ngôn ngữ giải thích trong tồn tại mà Potebnja đề ra như giải thích được các điềm (triệu chứng). Tính trừu tượng trong thơ đã nhất thiết vấn thiết giúp ta nhìn nhận mảng kí hiệu tư duy ngôn ngữ thơ.
Thơ trong phát ngôn ấy, ai đã nói gì với ai? Tính thông tin qua lời tạo lập Hạ Vi rất cao, đưa ra lí lẽ rất thuyết phục vừa là lời chân thành vừa đi đúng thời điểm. Thơ ca, có ít bài là những bài phong tình, sầu tình có thể mê hoặc tinh thần, làm quên được nỗi nhọc nhằn đau khổ để ta bước qua mọi điều. Bởi trong tình yêu ấy, không đơn thuần là bẩm sinh. Các chân lí siêu hình tiềm tàng trong các sự vật hiện hữu, rồi chính tình trạng hư vô lại biến thành sự Hữu và xuất hiện ra với ta, và hư vô không phải là hư vô trống rỗng: “Hãy tưởng tượng/ bạn hôn một người/ ngủ với một người khác/ và nhớ về một người khác nữa” trong “học yêu như đàn ông”. Như thế, đi tới sự suy niệm trầm mặc theo ba khía cạnh vừa nói tức là suy nghĩ về chính mình, một nhiệm vụ hiện hữu, bạn đi tới được tới đâu? Cảm thông? Tình yêu sáng suốt? và chính tình yêu hiện ra một sự bình an hay lo âu xuất hiện, ngừng tưởng tượng bạn có còn lòng trung thành giữa những quyến rũ do ảo ảnh gây ra?
“Là cơm áo mặc vẫn cứ nao nao
Giấu diếm dúi dụi bấm nhau trong bóng tối
Xác thịt nào phải tội lỗi
Chỉ là… vẫn ngượng mà thôi
Thu mỏng khoác hờ tấm áo đời bạc vôi
Nhục dục tình trường bỏ ngõ
Tâm tịnh trong vòng lửa đỏ
Có lần nào…
Chúng ta thử bước qua?”
(Hỏi khó)
Không có gì bắt rễ vào thông cảm, cũng chỉ là bắt đầu với hai người mà thôi. Hôm nay, dạo quanh một vòng qua vườn thơ tình của chị, trên cả truyền thống hay giây phút hiện tại chị vẫn đang xây nên bức hình siêu hình kì diệu, tư tưởng ấy, như bàn tay đỡ lấy đóa hoa đã héo khô đặt chúng xuống mặt đất một cách nhẹ nhàng hơn. Và mỗi khi hé nhìn vào dòng ý thức ấy, ta lại lại thấy hiện lên trước mắt một tình yêu huyền bí: Vậy tình yêu ấy là gì? “Khi người ta yêu nghệ thuật thì không có việc gì khó” - Nó - một sự giúp đỡ của tình yêu! Phải chăng chị Vi nhỉ?
P.Q.C
(SHSDB34/09-2019)
HỒ VIẾT TƯ
南國山河 南國山河南帝居 截然定分在天書 如何逆虜來侵犯 汝等行看取敗虛 |
NAM QUỐC SƠN HÀ Nam quốc sơn hà Nam Đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư |
NGUYỄN VĂN HÙNG
VĂN HỌC VIỆT NAM 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)
LGT: Bài viết tóm tắt những yếu tố và tiến trình tạo thành thơ Tân hình thức Việt, qua sự đối chiếu giữa các thang giá trị, thơ Việt và thơ Anh Mỹ. Vì vậy, tuy không thể tránh những từ chuyên môn về luật tắc thơ, nhưng chúng tôi cố gắng viết rõ ràng từng chi tiết, để người đọc dễ nắm bắt. Thơ Tân hình thức Việt đơn giản, dễ hiểu, nhờ sự tham khảo những nguồn thơ khó, điều này cũng tự nhiên, như Pop Art (bình dân) phản ứng lại hội họa Trừu tượng Biểu hiện (cao cấp). “Nghĩ về cách làm thơ”, cần đọc chậm rãi, trầm tư, và nhiều lần, nếu người đọc thật sự muốn tìm hiểu dòng thơ này.
ĐẶNG ANH ĐÀO
Có thể nói rằng Những thiên đường mù là một câu chuyện dệt bằng những mảnh ký ức trên nền hiện tại.
NGUYỄN VĂN THUẤN
Diễn ngôn tâm thần phân lập (discours schizophrénique) là thuật ngữ do hai triết gia và nhà nghiên cứu văn học người Pháp là G.Deleuze và F.Guattari đề xuất trong công trình viết năm 1972, Chủ nghĩa tư bản và bệnh tâm thần phân lập: Chống Oedipe (Capitalisme et Schizophrénie I. L’Anti-Œdipe).
ĐỖ QUYÊN
“Hãy đánh chết nó đi, nhà phê bình văn học - cái thằng khốn!”
(J.W. Goethe)
Từ năm 1972 cho tới nay đã có nhiều học giả, qua tập Yên thiều bút lục mới sưu tầm và vài nguồn tư liệu khác, đưa ra nhận định: Câu đối “Thập tải luân giao cầu cổ kiếm/ Nhất sinh đê thủ bái mai hoa” là của tri phủ Ngải Tuấn Mỹ người Hoa tặng phó sứ Nguyễn Tư Giản khi sứ bộ Việt Nam ghé lại địa phương này chứ không phải của Cao Bá Quát.
PHẠM TẤN XUÂN CAO
Tính khả hữu từ sự xuất hiện của đối tượng trong các chiểu sự là hình thái của đối tượng.(1) (Wittgenstein, Tractatus, 2.0141)
“Khi một điều gì đó trở nên đúng trong hư cấu thì ở đó không còn sự phân biệt khác nhau về mặt hữu thể học và nhận thức luận.”(2) (Gregory Currie)
PHAN TRỌNG HOÀNG LINH
Hài hước: cơn say của tính tương đối nhân thế, niềm vui thú kỳ lạ nảy sinh từ niềm tin chắc rằng chẳng có sự tin chắc nào cả. (Milan Kundera)
NGUYỄN THANH TÂM
Đạo đức (ethic, morality), luân lý (moral), theo Edgar Morin, hai khái niệm này không tách rời nhau, đôi khi chồng lấn và có thể sử dụng bất cứ từ nào(1).
NGUYỄN QUANG HUY
- Để tìm hiểu không gian xã hội của những người sản xuất văn hóa, cần phải tư duy theo mô hình quan hệ.
- Sự việc, hiện tượng bản thân nó không quan trọng, mà chính quan hệ giữa chúng mới có ý nghĩa.
(Pierre Bourdieu)
KHẾ IÊM
Viết hy vọng có thể giúp người đọc tự đánh giá thơ, theo đúng tiêu chuẩn của dòng thơ này, và những nhà thơ Tân hình thức Việt, trong việc thực hành, có thể điều chỉnh những sáng tác của mình, đi xa hơn, và làm nổi bật sự khác biệt giữa các thể loại thơ, tự do và vần điệu.
PHẠM THỊ HOÀI
Tôi không nói tới việc viết văn thuần túy vì mục đích kiếm sống, dù đấy là điều rất đáng bàn, và hơn nữa, sự nghèo túng của những người cầm bút ở xứ sở này đã trở thành truyền thống; cũng không nói đến việc viết văn để kiếm chác một vài thứ khác ít đáng bàn hơn, như danh vị hay thứ đặc quyền xã hội nào đó.
LỮ PHƯƠNG
Sau khi Sông Hương 36, 1989 xuất hiện, cũng đã xuất hiện một số bài báo phản ứng, trong đó có hai bài nhắc đến bài viết của tôi (1) - bài ký tên Trần Phú Lộc: “Ðôi lời nhân đọc Sông Hương số 36”, Văn nghệ số 21, 27-5-1989 và bài ký tên Văn Nguyên: “Báo động thật hay giả”, Nhân dân 20.5.1989.
MAI ANH TUẤN
Cụm từ “văn chương Nguyễn Huy Thiệp” không chỉ được tạo ra bởi và thuộc về giai đoạn văn học Đổi mới (1986) mà giờ đây, rộng rãi và phức tạp hơn rất nhiều, đã có mặt trong nhiều nghiên cứu Việt Nam (Việt học) đương đại, từ văn hóa văn chương đến chính trị - xã hội.
ĐỖ ĐỨC HIỂU
14 tháng bảy 1789, nhân dân Pari chiếm và phá ngục Bastille, biểu trưng của chế độ phong kiến đã tồn tại ở Pháp hàng chục thế kỷ. Nó là một "đại hồng thủy" cuốn sạch một thế giới cũ và mở đầu một thế giới mới ở Pháp, ở Châu Âu và vang dội trên toàn thế giới.
JOSEPH EPSTEIN
(Tiếp theo Sông Hương số 319, tháng 9/2015)
TRẦN HOÀI ANH
1.
Nói đến triết học phương Tây, không thể không nói đến chủ nghĩa hiện sinh, một trào lưu tư tưởng chủ yếu trong trào lưu chủ nghĩa nhân bản phi duy lý của triết học phương Tây hiện đại.
JOSEPH EPSTEIN
Có một số thứ ở đó sự tầm thường là không thể được dung thứ: thơ, nhạc, họa, hùng biện.
(La Bruyère).