ĐẶNG MẬU TỰU
Khi còn là thủ phủ xứ Đàng Trong của các Chúa Nguyễn và các triều Vua nhà Nguyễn sau này, Huế đã huy động, thu hút những tinh hoa từ Bắc chí Nam về để phục vụ cho triều đình cũng như để phô diễn tài nghệ của mình.
Tranh chân dung Viên Giác Đại Sư (cụ Bố chánh Nguyễn Khoa Luận) của HS Lê Văn Miến
Bên cạnh đó, Huế đã thu hút không chỉ có các bậc tài danh trong việc kinh bang tế thế mà còn là nơi phát tiết của những bậc anh tài trong văn hóa; những người thợ thủ công về đây để cống hiến trong xây dựng cung đình, miếu mạo cho triều đình và cho cả các nhà quý tộc, các bậc trí giả thượng lưu. Chính họ đã góp phần làm nên một nét riêng cho nghệ thuật triều Nguyễn, đặc biệt trong lĩnh vực Mỹ thuật, đánh dấu một bước quan trọng trong phát triển Mỹ thuật Việt Nam.
Phải nói đến triều Nguyễn dưới ảnh hưởng từ những nền văn hóa giao tiếp nhất là các trào lưu Mỹ thuật phương Tây, Hội họa và Điêu khắc Việt Nam mới có những biến chuyển tích cực. Dưới thời vua Gia Long đã có Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức nổi tiếng về tranh phong cảnh thủy mặc, sơn thủy, trúc lan. Thời Nguyễn, tranh gương và tranh khắc bản nhất thi nhất họa đã được du nhập và sử dụng trang trí trong một số công trình kiến trúc cung đình Huế.
Ở Kinh đô Huế đã xuất hiện người đầu tiên vẽ tranh sơn dầu ở Việt Nam là họa sĩ Lê Văn Miến (1870 - 1912). Sau đó, một thế hệ họa sĩ tiên phong như Lương Quang Duyệt với bức tranh Cối Kê Sơn và 6 bức tranh tường ở Cung An Định cũng xuất hiện trong thời gian này. Lớp họa sĩ chuyên nghiệp đầu tiên hoạt động trước khi có Trường Mỹ thuật Gia Định (1913) và trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương Hà Nội (1924) như Tôn Thất Sa, Nguyễn Khoa Toàn, Lê Văn Tùng, Nguyễn Văn Nhơn, Trần Văn Phềnh… với thủ pháp nghệ thuật châu Âu đã được thể hiện trong một số trang trí cung đình như 24 bức tranh “nhị thập tứ hiếu” ở Lăng Đồng Khánh và bức Cửu Long ẩn vân trên trần Lăng Khải Định. Điều này đã cho thấy một bước chuyển biến rõ rệt về Hội họa ở Huế thời kỳ này.
Trong Điêu khắc chủ yếu để trang trí, triều đình lập hẳn một cơ sở sản xuất gọi là Tượng cục có nhiệm vụ thực hiện các tượng trang trí cung đình như tượng quan quân, voi ngựa chầu hầu ở các nơi tôn ngiêm; các làng nghề thủ công được khuyến khích phát triển, những đồ hình điêu khắc nổi bằng đá và mỹ nghệ các loại được thực hiện ở các làng nghề mộc chạm, đúc đồng, các tượng tròn dùng để thờ bằng đồng và gỗ được ưa chuộng ở khắp Kinh thành bên cạnh nghề nề ngõa làm công việc gắn mảnh sành trang trí nơi thờ tự, bình phong lăng miếu cũng được thịnh hành. Đặc biệt trong sự phát triển đồ thủ công mỹ nghệ, các vua triều Nguyễn còn cho nghiên cứu sản xuất đồ mỹ nghệ Pháp lam tráng men trên kim loại bên cạnh sản xuất các đồ sành sứ trong nước song song với sự du nhập các đồ sứ ký kiểu cho triều đình đặt hàng ở Trung Hoa dành cho Cung đình gọi là Men lam Huế.
![]() |
Tranh Tôn Thất Đào |
Khi trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ra đời, việc tiếp thu kỹ thuật vẽ châu Âu được phát triển, các sinh viên tốt nghiệp đã tìm cơ hội thể hiện tài năng của mình ở các thành phố lớn. Huế là Kinh đô lúc bấy giờ nên sự thu hút càng mạnh mẽ. Ngoài họa sĩ Tôn Thất Đào là người địa phương ra thì các họa sĩ đã một thời xuất hiện ở Huế sau này đều là những tên tuổi của hội họa cả nước như Nguyễn Đỗ Cung, Nguyễn Đức Nùng, Phạm Viết Song, Nguyễn Tiến Chung, Tô Ngọc Vân… Trong số họ có người đã giảng dạy môn Vẽ trong các trường Trung học, cũng như tham gia vẽ tác phẩm trong các Tu viện hoặc sáng tác theo sở thích. Việc họ đã thực hiện hoặc sự xuất hiện của họ đã làm phấn khích thế hệ thanh thiếu niên thời bấy giờ muốn theo sở nguyện về Hội họa. Sau này có người đã theo chí hướng ấy để trở thành họa sĩ. Tuy nhiên, điều quan trọng là họ đã tạo nên được một không khí văn hóa mới trên đất Huế vào những năm cuối triều Nguyễn ở kinh kỳ.
Ngày 23/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền thuộc về nhân dân. Ngay sau đó, gần một tháng sau ngày cách mạng, ngày 18/9/1945, chính quyền cách mạng thực hiện chỉ đạo của TW Đảng đã triệu tập ngay cuộc Hội nghị những người làm nghệ thuật để thành lập tổ chức nghề nghiệp của mình. Để chuẩn bị cho ngày Đại hội Liên đoàn Văn hóa Cứu quốc Thừa Thiên, một cuộc huy động tranh vẽ tuyên truyền được tổ chức và khai mạc vào lúc 15 giờ chiều chủ nhật ngày 23/9/1945 tại Viện Dân Biểu (cũ). Đây là cuộc triển lãm tranh đầu tiên ở Huế từ sau cách mạng. (Theo báo Quyết Chiến số 24 ra ngày 21/9/1945). Như vậy lực lượng Mỹ thuật ở Thừa Thiên lúc bấy giờ, hòa trong không khí thành công của cách mạng, đã nức lòng và hứng khởi sáng tác nhiều tác phẩm đồng thời giúp cho cách mạng bằng việc chép lại tranh tuyên truyền cổ động để chuyển đến các tỉnh miền Trung. Tinh thần ấy cho thấy vai trò của họa sĩ trong cuộc cách mạng không phải nhỏ.
Sau khi cuộc cách mạng đã đi vào giai đoạn mới của cuộc trường kỳ kháng chiến, các họa sĩ được sự phân công của tổ chức lên chiến khu hoặc trở ra miền Bắc để tham gia vào công tác cách mạng trong nhiệm vụ tuyên truyền, chỉ còn rất ít ở lại Huế cho đến 1954. Đến năm 1957 chính quyền Sài Gòn cho mở Viện Đại học Huế, trong đó có Trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Huế (Ecole des beaux arts de Hue (tiếng Pháp) hoặc Institude of Fine Arts of Hue (tiếng Anh). Trường làm nhiệm vụ đào tạo cả kiến trúc. Sau đó kiến trúc chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh, trường chỉ làm nhiệm vụ đào tạo Mỹ thuật.
Họa sĩ Tôn Thất Đào, người tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương ngày ấy là Hiệu trưởng đầu tiên của trường này. Các họa sĩ miền Trung khác là Phạm Đăng Trí, Phan Xuân Sanh (từ Pháp về) là những trụ cột của trường. Các họa sĩ từ miền Nam giảng dạy theo chương trình học khóa như Mai Lang Phương, Lê Yên; Lê Ngọc Huệ (ông là tác giả nhóm tượng hoành tráng về Thiên Chúa nhà thờ La Vang, Quảng Trị), Mai Trung Thứ (được mời về từ Pháp), Trương Đình Ý. Họ công tác trong suốt các thời kỳ của những người Hiệu trưởng từ Tôn Thất Đào, Mai Lang Phương, Lê Yên, Vĩnh Phối và đã để lại kết quả trong giáo dục các khóa học đầu tiên ra trường vào đầu thập niên 60. Cùng với các đồng nghiệp ở Sài Gòn Gia Định, họ đã nỗ lực tạo nên một phong trào mạnh mẽ trong sáng tạo, hình thành nên hội họa sĩ trẻ Việt Nam có nhiều hoạt động và đã tạo nên những khuôn mặt Mỹ thuật đầy cá tính ở miền Nam thời bấy giờ. Những tên tuổi của Huế cũng có mặt trong số đó, như Đinh Cường, Nguyễn Văn Liễu (Trịnh Cung), Lâm Triết, Nguyễn Tuấn Khanh (Rừng), Mai Chửng, Tôn Nữ Kim Phượng, Hoàng Thị Diệm Phương, Nguyên Khai, Trương Đình Quế…
![]() |
Tranh Tôn Thất Văn - Ảnh Trần Viết Ngạc |
Trường Mỹ thuật Huế đã đào tạo các tên tuổi và đóng góp cho Huế cũng như suốt dải đất miền Trung và Cao Nguyên. Riêng Huế là nơi hội tụ nhiều tên tuổi, do điều kiện làm việc trong môi trường của giáo dục Mỹ thuật, họ sáng tác có thuận lợi hơn các tỉnh khác song các họa sĩ đều thể hiện tài năng để đóng góp mảng mỹ thuật cho miền Trung đã để lại nhiều tác phẩm cho đời sau. Với đội ngũ giảng viên kỳ cựu như Tôn Thất Đào, Lê Yên, Mai Trung Thứ, Mai Lan Phương, Thiềm Quốc Hùng cộng thêm sự thu hút các họa sĩ ưu tú tốt nghiệp ở Huế và Sài Gòn Gia Định và ở nước ngoài như Đinh Cường, Vĩnh Phối, Tôn Thất Văn, Đỗ Kỳ Hoàng, Lê Hữu Nguyên, Mai Chứng, Trịnh Cung, Trương Đình Quế, Lê Thành Nhơn, Văn Đen, Hiếu Đệ, Hồ Hoàng Đài đã để lại những kinh nghiệm trong sáng tác cho những thế hệ sau này…
![]() |
Tranh Đinh Cường |
Trong những năm 60, khi họa sĩ Vĩnh Phối đảm nhận giám đốc Trường Quốc gia Cao đẳng thì không khí học tập đã dần thoát khỏi tính hàn lâm và đi vào tìm kiếm trong sáng tác, vai trò sáng tạo rất được lưu tâm. Đồng thời, trường còn trang bị về kiến thức văn hóa dân tộc xã hội để cho mỗi họa sĩ sau này có đủ trình độ nhận thức về Mỹ thuật của tiền nhân nước nhà. Và cũng chính những năm ấy, Huế cũng đã mở ra nhiều cuộc triển lãm tranh với những phong cách mới mẻ. Có lẽ, tranh trừu tượng lần đầu tiên xuất hiện bằng các cuộc triển lãm của Vĩnh Phối, Đinh Cường. Những phòng tranh phối hợp của các họa sĩ Vĩnh Phối, Đinh Cường, Tôn Thất Văn, Lê Văn Tài ở những năm 66, 67; những cuộc triển lãm tranh tượng phối hợp các tác giả nhiếp ảnh và tượng tròn của nhà điêu khắc Nguyễn Thanh Thu, triển lãm tranh tượng của Lê Liên và Phạm Văn Hạng, của các họa sĩ Tôn Thất Văn, Võ Đình, Đinh Cường, Nguyễn Tuấn Khanh, Hạ Quốc Huy, Nguyễn Thanh Hiền, Lê Quý Long, Dương Đình Sang đã gây ấn tượng với công chúng Huế. Đó là những dấu mốc đáng nhớ của Mỹ thuật Huế do những người từ trường lớp đào tạo ở miền Nam trước đây đóng góp cho sự phát triển.
![]() |
Tranh Võ Đình |
Thập niên 60 thế kỷ trước, Mỹ thuật Huế cũng ghi nhận sự xuất hiện học xưởng Tiểu Công Nghệ Huế do họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàng quản lý và từ đó, môn sơn mài đã được đưa vào môn học của trường Mỹ thuật Huế do họa sĩ Đỗ Kỳ Hoàng phụ trách, bên cạnh sự phát triển Mỹ Nghệ sơn mài thì vai trò đưa sơn mài vào sáng tác tác phẩm Mỹ thuật ở Huế đã được phổ biến.
![]() |
Tranh Phi Hùng |
Nói về hội họa, ngoài trường lớp cũng nên đề cập một dòng từ các họa phòng. Huế có nhiều họa phòng, nơi Mỹ thuật đến với công chúng một cách dễ dàng bằng những chân dung dễ nhận ra và phong cảnh hay tĩnh vật. Những tên tuổi thời bấy giờ có họa sĩ Ngọc Lựu với phòng vẽ Ngọc Duy, Rin… Họ là những họa sĩ vẽ truyền thần tài năng đã góp phần cho sinh hoạt Mỹ thuật Huế. Đặc biệt đáng lưu ý còn có ba anh em nhà họa sĩ Phi Hùng, Phi Long và Maria Mộng Hoa. Họ tự học và đã trở thành họa sĩ. Cạnh đó, trong số những họa sĩ làm công tác quảng cáo phải kể đến một họa sĩ tài hoa trong nghệ thuật vẽ quảng cáo Ciné đó là họa sĩ Lê Vinh. Với cách làm quảng cáo táo bạo và những nét vẽ mạnh mẽ, họa sĩ Lê Vinh đã tạo nên phong cách riêng của lối vẽ Ciné một thời nổi tiếng ở Huế. Ông cũng đã từng làm nhiều người ngạc nhiên về tranh chân dung cỡ lớn khi ông thực hiện các chân dung Hồ Chủ tịch ngay trong những ngày Huế giải phóng 26/3. Một số họa sĩ tự học để vẽ trong đó có họa sĩ Bửu Chỉ - là một trường hợp đặc biệt trong sáng tạo. Năm 1975, Bửu Chỉ tham gia vào Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế, trở thành một tên tuổi được mọi người ngưỡng mộ và quý trọng. Bộ tranh bằng bút sắt của ông thời kỳ đó được nhiều báo chí trong nước và nước ngoài sử dụng là một trong những tài sản quý trong bộ sưu tập nghệ thuật của gia đình ông. Cùng thời với Bửu Chỉ còn có họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận tự học và đã tổ chức một số cuộc triển lãm trước 1975 và sau này.
Trong hai thập niên 60, 70 ở Huế có nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật trong đó có họa sĩ Phạm Đăng Trí nghiên cứu về Ngũ Sắc Huế và tỉ lệ vàng trong nghệ thuật kiến trúc - trang trí cung đình nhà Nguyễn; và một cây bút nghiên cứu Mỹ thuật khác được mọi người tin cậy bởi sự sắc sảo khi nhận định về nghệ thuật là Huỳnh Hữu Ủy. Ông đã có một số bài viết đánh giá tác phẩm một cách chân thực. Trong mỗi cuộc triển lãm ông đều từng có mặt để đồng hành cùng họa sĩ.
Bên cạnh việc tìm kiếm những khuynh hướng trong nghệ thuật của đa phần họa sĩ để góp phần cho sự phát triển nghệ thuật, có một số họa sĩ ngoài việc tìm kiếm làm mới trong nghệ thuật đã nhận thức về xã hội, tìm ý tưởng giải phóng đất nước, đấu tranh lại bạo lực cường quyền, chống lại chế độ miền Nam. Có người đã hy sinh như họa sĩ Lê Minh Trường - người bị tù đày; họa sĩ Bửu Chỉ và một số khác xây dựng lực lượng trong học sinh sinh viên và các lực lượng tranh thủ hòa bình, dân chủ chống lại chế độ như họa sĩ Vĩnh Phối, Phạm Đăng Trí, nhà điêu khắc Lê Thành Nhơn. Họ là những thành viên của ủy ban xây dựng tượng danh nhân, một tổ chức mang tính tiến bộ nhằm vận động xây dựng tượng danh nhân lịch sử mà việc làm đầu tiên là tượng chí sĩ Phan Bội Châu, nay được dựng ở công viên cạnh cầu Trường Tiền Huế. Các họa sĩ Phan Hữu Lượng, Phan Thế Bính với phong trào SVHS Mỹ Thuật đã đi đầu trong việc tham gia vào tổ chức cách mạng vận động học sinh sinh viên xuống đường chống Mỹ.
Ngay những ngày đầu giải phóng Huế 26/3/1975, với khí thế cách mạng, lực lượng sinh viên Trường Mỹ thuật đã tham gia ngay vào công cuộc tập hợp công tác xã hội. Các họa sĩ giảng viên đã quay lại Trường mặc dù khi ấy chưa có lãnh đạo trường mà chỉ có tổ chức Đoàn và Hội sinh viên chủ đạo trong công tác điều hành. Các thầy đã tích cực tham gia cùng sinh viên trong việc tổ chức vẽ các áp phích, pano, khẩu hiệu trang hoàng trong thành phố cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng. Thời gian này, lực lượng họa sĩ Huế được tập hợp bởi các nguồn từ trường Mỹ thuật Huế, các họa sĩ từ Sở Văn hoá Thông tin Bình Trị Thiên, các họa sĩ đang công tác tại trường Phổ thông và một số cơ quan khác. Đến tháng 8 năm 1978, Đại hội Hội Văn học Nghệ thuật lần thứ I, Phân hội Mỹ thuật Bình Trị Thiên ra đời và hoạt động cho đến năm 1990. Sự kiện chia tách tỉnh, 3 Hội được chia ra cho đến năm 2000, với lực lượng họa sĩ ở Thừa Thiên Huế lớn mạnh, tại Đại hội nhiệm kỳ 2000 - 2005, nguyện vọng của lực lượng họa sĩ đã được Đại hội thông qua và trở thành Hội Mỹ thuật Thừa Thiên Huế hoạt động cho đến này nay.
Nhờ vào sự tiếp cận với các cuộc triển lãm Mỹ thuật từ trước đến nay, các hội viên Hội Mỹ thuật đã có cái nhìn cởi mở về sự đổi mới trong tìm kiếm nghệ thuật; đặc biệt với hai thiết chế văn hóa cho Mỹ thuật là nhà trưng bày nghệ thuật Điềm Phùng Thị và trung tâm nghệ thuật Lê Bá Đảng. Cạnh đó là hàng trăm tác phẩm điêu khắc của các tác giả quốc tế là kết quả từ các trại điêu khắc quốc tế trong các kỳ Festival; các phòng triển lãm nghệ thuật mới như Performance, Video Art, Installation, đã đóng góp cho sự đa dạng trong Mỹ Thuật Huế. Trong sự nỗ lực để theo kịp sự phát triển trong nghệ thuật đương đại, một số họa sĩ ở Huế như Lê Thừa Tiến, anh em song sinh Thanh - Hải, Trương Thiện, Đinh Khắc Thịnh,… Lê Thừa Tiến đã hòa nhập với dòng chảy chung để tạo nhiều sự kiện góp phần cho nghệ thuật mới của thế giới; cũng như hai họa sĩ Thanh - Hải với New Space Arts Foundation và “Then” của Trần Tuấn, Performance của Nguyễn Văn Hè hoặc sắp đặt của Võ Xuân Huy đã tổ chức các hoạt động trong đó sự giao lưu với các họa sĩ các nước. Trong công tác Hội, đã tổ chức những cuộc triển lãm lớn hàng năm xem như là truyền thống của giới Mỹ Thuật như Ngày Truyền thống Mỹ thuật Việt Nam, Tặng phẩm tháng 3, Tác giả nữ, Triển lãm tranh Mùa xuân, Tết và con giáp v.v. Huế còn có các nhóm sáng tác tuy là những sinh hoạt mang tính ngoài tổ chức hội nhưng đã thúc đẩy, làm đa dạng các hoạt động mỹ thuật Cố đô.
Những thành quả của Hội Mỹ thuật với những khuôn mặt của họa sĩ Thừa Thiên Huế nêu trên vẫn chưa đầy đủ vì dưới góc nhìn hẹp không thể bao quát hết. Dòng chảy của Mỹ Thuật Huế đang lưu chuyển, tất cả đều mong muốn được thể hiện, tìm kiếm cái độc đáo trong sáng tạo, muốn cống hiến nhiều hơn cho đất nước, cho xứ sở mà họ đang sống.
Đ.M.T
(SDB18/09-15)
NGUYỄN HỮU NGÔKhu nhà máy bên kia sông tràn đầy sức sống giữa một bầu trời êm ả. Những bông cỏ chen nhau vươn lên… và bỗng nhiên một cánh chuồn chuồn đỏ thắm đáp xuống - một chi tiết thật bất ngờ và thú vị. Toàn thể bức tranh tỏa ra ánh dịu dàng của một buổi sáng mùa xuân.
ĐẶNG MẬU TỰUKhi được Hội Mỹ Thuật Việt Nam phân bố cho miền Trung một suất đi thực tế Trường Sa, Họa sĩ Lê Văn Nhường là một điểm trong tầm ngắm để được giới thiệu đi trong chuyến hải hành này. Trường Sa là một trong những mục tiêu mà Hội Mỹ thuật quan tâm trong cuộc vận động sáng tác về biển đảo trong năm 2010 - là điểm nóng vì là tiền tiêu của Tổ quốc. Ai cũng mong có một lần được đi đến đó.
THANH TÙNGVào những ngày cuối tháng 7-2010 Đinh Cường từ Mỹ về và Phan Ngọc Minh từ Đà Nẵng ra tổ chức một cuộc triển lãm tranh ở gallery Chiêu Ê - số 89 Minh Mạng, thành phố Huế - nhà riêng của hoạ sĩ Hoàng Đăng Nhuận.
TRẦN THANH BÌNHCách đây đúng 9 năm, có một họa sĩ xứ Huế đã lang thang gần 2 tháng trời trên những góc phố cổ kính Hà Nội để "chiêm nghiệm", đó là Lê Quý Long.
LÊ QUÝ LONGMùa xuân năm ấy, vào dịp Tết, chợt nhớ đến người bạn đồng nghiệp ở cách thành phố hơn hai kilômét về phía tây dọc theo dòng sông Hương. Anh ở gần chợ Long Thọ, bên trái là con đường đi đến sân Hổ Quyền.
SĨ THIỆNTrại sáng tác điêu khắc Quốc tế lần 2 được tổ chức tại Huế đã kết thúc được 3 tháng. Bằng sự lao động sáng tạo, bất chấp cái "mưa thúi đất thúi trời", 14 nhà điêu khắc Việt Nam là 16 nhà điêu khắc đến từ châu Mỹ, châu Âu, châu Á đã để lại cho Huế 30 bức tượng, một món quà vô giá và vĩnh hằng.
NGÔ MINHTôi quen biết họa sĩ Đặng Mậu Tựu từ những ngày gửi con trai đi học lớp hội họa ở Nhà Thiếu nhi Huế. Những ngày đó thiếu nhi đến học vẽ đông lắm. Có lớp buổi sáng, buổi chiều, lại có lớp ban đêm. Lớp nào cũng có mặt thầy Đặng Mậu Tựu có mái tóc bồng bềnh như sóng Quy Nhơn, mặt mày hốc hác vì thiếu ngủ và thiếu dinh dưỡng, cặm cụi dạy các cháu cách cầm cọ, pha màu, phác thảo tranh. Rồi thầy Tựu dắt các em đi chơi Bạch Mã, Lăng Cô... để tìm cảm hứng vẽ.
LGT: Sau hơn năm tháng bị tai biến, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận đang dần hồi phục trở lại. Ý thức sống là sáng tạo đã thôi thúc người họa sĩ. Và như vậy toile đã căng lại trên khung, màu cũng đã sẵn sàng.A. Camus trong một cơn bệnh đã chiêm nghiệm “Bệnh tật là một dòng tu kín”. Hy vọng rằng trong ngọn lửa sáng tạo nhen lên lần này, tranh Hoàng Đăng Nhuận có thêm nhiều chiêm nghiệm mới trong dòng tu kín của mình.S.H
ĐẶNG MẬU TỰU... Về quê, về quê, ai cũng có ít ra một lần về quê.Về cái nơi chôn nhau cắt rốn ấy, dù giàu nghèo đến đâu thì mảnh đất ấy cũng rất thiêng và rất riêng với mình.
NGUYỄN NGUYÊN ANTừ những thập niên sáu mươi đến tám mươi của thế kỷ trước, trong làng vẽ Huế, họa sĩ Lê Vinh - một cây cọ cinéma nổi lên như hiện tượng. Tưởng rằng, ông chuyên vẽ tranh quảng cáo, pano, nhưng không, ông có 20 bức vẽ còn lưu giữ trong Bệnh viện Trung ương Huế từ năm 1970 và là người vẽ tranh Bác Hồ to lớn nhất Việt Nam trong thời điểm 1975.
HẠNH NHIĐó là tên sê-ri tranh sơn mài của họa sĩ Đinh Khắc Thịnh - người được biết đến nhiều với các tác phẩm mỹ thuật sắp đặt trong các Festival nghề thủ công truyền thống và các Festival Huế.
PHAN THANH BÌNH-KHÁNH TRANGNăm nay triển lãm mỹ thuật Bắc Miền Trung lần thứ VIII được tổ chức tại Thanh Hoá, vùng đất địa đầu của khu vực miền Trung. Triển lãm trưng bày 116 tác phẩm của 46 tác giả là hội viên Hội Mỹ thuật Việt Nam và 51 tác giả hội viên Hội VHNT các địa phương. Hội đồng nghệ thuật đã loại 19 tranh vi phạm quy chế về thời gian sáng tác, kích thước (TT-Huế có 3 tranh) và đặc biệt trong đó có 9 tranh bị loại vì chất lượng nghệ thuật kém.
PHAN THANH BÌNHHình bóng người phụ nữ xứ Huế từ lâu đã được khắc sâu trong nghệ thuật hội họa với bao tác phẩm, dáng hình và tình cảm sâu nặng, với những vẻ đẹp chiều sâu hài hòa, rung cảm, xao động lòng người. Những tác phẩm ấy đã có ý nghĩa lịch sử lớn lao trong việc khẳng định và làm sáng tỏ hơn những giá trị tinh thần, phẩm chất của con người Huế nói chung và của người phụ nữ Huế nói riêng.
Đầu năm 1997, khi mới chuyển về công tác tại Đài Truyền hình Huế, tôi có ý định làm một phim tài liệu nghệ thuật về hoạ sĩ Bửu Chỉ. Sau nhiều lần từ chối, họa sĩ Bửu Chỉ đã đồng ý giúp tôi việc này. Ngày 25-2-97, tôi gửi anh 7 câu hỏi nhằm có thêm tư liệu để lên đề cương kịch bản phim. Hơn 20 ngày sau, anh chuyển cho tôi một thếp giấy vở học trò gồm 13 tờ do tự tay anh viết xong, đề ngày 16-3-1997. Vì nhiều lý do, phim chưa làm được, tôi gửi trả anh các tư liệu đã mượn, riêng bài trả lời phỏng vấn, anh nói tôi hãy giữ làm kỷ niệm về một dự định bất thành.Với tất cả tấm lòng thương quý và kính mến một người Anh, xin được giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của Anh mà tôi xem như là những trang di cảo về CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT. ĐẠI DƯƠNG
ĐẶNG MẬU TỰUGiới họa sĩ xem Bửu Chỉ là một người đặc biệt không chỉ vì tính khí hoặc bởi từ một người học và tốt nghiệp ngành luật nhưng lại tự học vẽ, có tác phẩm từ lúc học Luật rồi trở thành họa sĩ thực thụ, chết sống với nghề, mà vì tác phẩm của anh có một sắc thái riêng, anh đã tạo cho mình một cõi riêng trong nền nghệ thuật đương đại.
NGUYỄN TRỌNG TẠOMột ngày cuối năm Con Khỉ, tôi ghé vào Gallery Minh Châu số 7 Lý Đạo Thành, Hà Nội, không phải để chiêm ngưỡng tranh của các bậc thầy hội hoạ Nguyễn Phan Chánh, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng... vẫn thường được bày bán ở đây, hay để thăm cô chủ nhỏ Minh Châu quen thân từ trong Huế như mọi lần, mà để xem tranh của mẹ cô vừa mang từ Huế ra trình làng với giới hâm mộ hội hoạ đất Hà Thành.
PV: Ảnh hưởng nào đã cho hoạ sỹ về một thế giới quan có tên gọi là: "Không gian Lê Bá Đảng"? Lê Bá Đảng (L.B.Đ): Không gian của tôi là tạo hoá thiên nhiên hài hoà trong tác phẩm. Không có cô đứng, cô ngồi, cô uỷ lụy, cô say, cô tỉnh, cô chiêm bao; không nhìn thẳng như mọi người mà nhìn từ nhiều góc độ.
PHÚC VINHSau một thời gian dài lang bạt giang hồ, tết này, họa sĩ Hoàng Đăng Nhuận quyết định trở về Galery Chiêu Ê, nơi ông đã gắn bó một thời trai trẻ, trú mình trong căn họa thất xinh xắn vừa xây dựng.
TRẦN KIÊM ĐOÀNLàm nghệ thuật ở xứ nghèo là một “thiện nghiệp gian nan”! Thiện nghiệp vì làm cho đời vui. Gian nan vì phải sống đời áo cơm vất vả.
TRẦN HẠ THÁP Với gần bốn mươi bức tranh trong cuộc triển lãm ở số 4 Hoàng Hoa Thám - Huế khai mạc vào 11 tháng 10 năm 2008, Võ Xuân Huy đã đặt người thưởng ngoạn trước một công trình tổng hợp từ 3 phạm trù sơn mài độc đáo. Sự nối kết truyền thống vào hiện đại này mang tầm vóc đặt để một nguyên lý, xứng đáng để giới bình luận lưu tâm và ghi nhận lâu dài.