Đôi nét về chuyện cười và truyện cười

11:21 13/05/2008
Khi sử dụng một khái niệm cơ bản, nhất là khái niệm cơ bản chưa được mọi người hiểu một cách thống nhất, người ta thường giới thuyết nó.

“Truyện cười” là một khái niệm cơ bản, nên trong quá trình nghiên cứu nó, không thể bỏ qua thao tác logic sơ đẳng ấy.
Trong các giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, trước kia cũng như hiện nay, truyện cười được coi là một loại truyện, và dĩ nhiên là truyện dân gian, nên khi giới thuyết khái niệm này, nhiệm vụ chủ yếu và gần như duy nhất của các nhà nghiên cứu là chỉ ra dấu hiệu tiêu biểu để tách nó ra khỏi những loại truyện dân gian khác ( như truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn...), đó là yếu tố gây cười. Trong giáo trình Văn học dân gian Việt , GS Đinh Gia Khánh viết: “ Truyện cười, nó một cách đơn giản, là truyện làm cho người ta cười (...). Trong truyện cổ tích cũng đã có nhiều yếu tố gây ra tiếng cười(...). Song tiếng cười ở đây chỉ có vai trò điểm xuyết, làm cho truyện thêm duyên dáng, đậm đà mà thôi chứ không chiếm vị trí trung tâm trong sự phát triển của truyện. Giữa truyện ngụ ngôn và truyện cười thì có sự thâm nhập sâu hơn. Một số truyện vừa có thể coi là truyện ngụ ngôn mà lại vừa có thể coi là truyện cười (...). Tuy nhiên, truyện ngụ ngôn không nhằm mục đích gây ra tiếng cười. Truyện cười trái lại bao giờ cũng nhằm mục đích ấy. Đằng sau mục đích gây ra tiếng cười có thể còn mục đích khác sâu sắc hơn. Nhưng trước hết phải đạt mục đích gây cười đã” (1)
Với cách hiểu này thì “truyện” nói chung và “truyện dân gian” nói riêng được coi như là những khái niệm có sẵn, ổn định, không có gì đáng bàn cãi.
Thế nhưng thời gian gần đây, trong việc sử dụng thuật ngữ lại có hiện tượng, cái mà từ trước tới nay gọi là truyện dân gian thì một số nhà nghiên cứu gọi là chuyện dân gian. Chẳng hạn mới đây, trong bài báo đăng trên Tạp chí Sông Hương số 6- 2000, một học giả viết: “Tôi gọi là chuyện những câu chuyện dân gian, chuyện hoang đường, kể một cách hồn nhiên, chuyện cổ tích, chuyện truyền thuyết, chuyện thần kỳ, chuyện tiếu lâm... (2).
Trong Từ điển tiếng Việt 2000 (Hoàng Phê chủ biên), “truyện cười” được định nghĩa là “chuyện kể dân gian dùng hình thức gây cười để giải trí, hoặc để phê phán nhẹ nhàng”.
Tuy đây chỉ là cách hiểu thông thường về khái niệm “ truyện cười”, song vẫn là một quan niệm đáng được tham khảo.
Điểm đáng lưu ý là khoảng vài thập kỷ nay, trên các sách, báo xuất hiện hàng loạt những mẩu đối thoại cười, lúc đầu dĩ nhiên cũng có tên người sáng tác hẳn hoi, nhưng dần dà, trong số này nhiều mẩu chuyện hay đã được dân gian hóa, góp phần bồi đắp cho kho tàng truyện cười dân gian Việt Nam ngày một phong phú hơn thêm. Xin dẫn ra vài ví dụ:
TƯƠNG TỰ
Trong giờ toán, thầy giáo lấy một ví dụ về đại lượng tỷ lệ nghịch:
- Một người xây một bức tường thì hết ba ngày. Vậy ba người cùng xây bức tường đó thì hết một ngày.
Sau đó, thầy yêu cầu học sinh tìm một ví dụ tương tự. Một học sinh phát biểu:
- Thưa thầy, một người bơi qua một khúc sông thì hết ba phút. Vậy ba người cùng bơi qua khúc sông ấy thì hết một phút ạ!
TỔNG THỐNG MỚI
Con trai hỏi bố:
Bố vẫn thường nói, mỗi gia đình là một quốc gia nhỏ, vậy bố là gì?
Là tổng thống.
Còn mẹ?
Là chính quyền.
Bà?
CIA
Còn con?
Con là nhân dân
Nói xong, bố cắp cặp đến công sở. Một lát sau, ông nhận được điện của con trai:
- Thưa tổng thống, hiện nay chính quyền vừa có một tổng thống mới, CIA thì đang ngủ, còn nhân dân thì hết sức lo lắng!
Đặc biệt, trong mảng này có những sáng tác rất ngắn, và đây chính là “ trung tâm rắc rối” của việc xác định ranh giới giữa hai khái niệm “ chuyện” và “ truyện” mà chúng tôi muốn đề cập trong bài viết nhỏ này. Ví dụ:
VÔ Ý
Mãi tới chiều người chồng mới về tới nhà, dáng uể oải, trách vợ:
- Em thật vô ý hết chỗ nói! Bảo đi họp phụ huynh cho con mà không nói rõ nó đang học ở trường nào.
MỐI TÌNH ĐẦU.
Sau khi chia tay với người yêu, nàng nói với chàng:
- Đây là lần thứ năm em hiểu rằng mối tình đầu của phụ nữ không bao giờ đi đến hôn nhân
 Một câu hỏi đặt ra là: Có nên coi hai tiểu phẩm hài trên đây là truyện cười hiện đại không?
Chúng tôi nghĩ rằng, gọi một văn bản tự sự dân gian nào đó là “chuyện” hay “truyện” có khi tùy thuộc vào quan niệm. Song nếu gọi là “chuyện” để phân biệt mức độ đậm- nhạt, cao- thấp về tính văn học giữa loại văn học dân gian với văn học bác học, có lẽ không cần thiết, bởi vì từ hai chữ “dân gian” trong cụm từ “văn học dân gian”, ta đã có thể suy ra điều đó. Chính vì thế mà hiện nay, trong các giáo trình Văn học dân gian Việt Nam cũng như Từ điển văn học Từ điển thuật ngữ văn học, chưa thấy ai gọi “truyện dân gian” là “chuyện”. Và theo đó, có thể nói, “truyện dân gian” vẫn là khái niệm được sử dụng phổ biến trong giới nghiên cứu ở nước ta.
Tuy nhiên, những đối thoại và những mẩu thoại cười tương tự như chúng tôi và dẫn ra trên có phải là truyện cười hay không lại là điều đang được nhiều người quan tâm. Điều này lại liên quan đến khái niệm “truyện”. Tức vấn đề đặt ra không phải xác định xem nó có phải là truyện cười hay không (trong quan hệ với truyện cổ tích , truyện ngụ ngôn...) mà ở chỗ nó có phải là “truyện” hay không. Theo chỗ chúng tôi biết, hiện nay, các quyển Từ điển thuật ngữ văn học” của ta chưa có định nghĩa nào bao quát hết tất cả những cái mà trong thực tế được gọi là truyện. Chẳng hạn, Từ điển văn học cho rằng truyện “ có hai thành phần chủ yếu là cốt truyện và nhân vật” (3). Còn Từ điển thuật ngữ văn học lại khẳng định dứt khoát hơn: truyện “bao giờ cũng có cốt truyện. Gắn liền với cốt truyện là một hệ thống nhân vật” (4). Nhưng thực tế “có khá nhiều truyện không có cốt truyện và cũng không có nhân vật, hoặc nhân vật mờ nhạt như một số truyện của Nguyễn Công Hoan, Thạch Lam, truyện của Camus, Kafka J.P. Sartre..v.v... vẫn là truyện” (5)
Đó là truyện ngắn hoặc truyện vừa. Còn truyện cười thì sao?
Trong mục “ Cùng bạn đọc” của cuốn Truyện cười hiện đại, Lê Ngọc Tú và Nguyễn Sông Thao viết:
“ Truyện cười có phải là một thể loại văn học không? Câu trả lời ngay tức khắc rằng: phải. Thậm chí truyện cười là một thể loại văn học không thể và không nên thiếu trong sự nghiệp phát triển chung của nền văn học. Có điều truyện cười nào được xếp vào loại truyện thực sự đúng nghĩa của truyện văn học lại là vấn đề khác. Hiện nay, theo dư luận bạn đọc, có nhiều truyện tuy được các tác giả xếp vào sách truyện cười hiện đại, nhưng thực ra nó mới chỉ là những mẩu chuyện hoặc tiểu phẩm chứ chưa phải là truyện theo nghĩa tác phẩm. Đã là truyện mang tính văn học- văn học viết, thì tác phẩm phải chứa đựng các hình tượng văn học, phải đa dạng trong phong cách thể hiện, có cốt truyện, có tính cách nhân vật, hoàn cảnh điển hình, thời gian, ngôn từ.. .v.v... (6)
Thiển nghĩ, quan niệm như vậy là khá rõ ràng. Thế nhưng ngay ở trang 49 và 50 của quyển sách này, các tác giả lại đưa vào những văn bản sau:
ĐỐI ĐẦU VÀ ĐỐI THOẠI.
- Em yêu ạ, xu thế chung của nhân loại hiện nay là xích lại gần nhau, và dùng “ đối thoại” thay cho “ đối đầu”.
- Thế tại sao mỗi khi xích lại gần em anh cứ “ đối đầu” thay cho “ đối thoại”?
THÍCH HƠN
Trong đêm xem hát quan họ, cô gái chợt hỏi chàng trai:
Anh yêu! Anh thích “ liền anh” hay “ liền chị”?
Thích cả! Nhưng không thích bằng... “ liền em”
Các trang 14, 19, 41 cũng có những “truyện” tương tự.
Với người đọc, ở những “truyện” này, các khái niệm “ cốt truyện”, “tính cách nhân vật”,  hoàn cảnh điển hình”, nếu có cũng hết sức mờ nhạt và xa lạ. Thành ra “ có cốt truyện” hay “không có cốt truyện”, “có tính cách nhân vật” hay “ không có tính cách nhân vật” không còn là nỗi băn khoăn lớn khi ta xác định ranh giới giữa “ chuyện” và “ truyện”. Vì thế, bên cạnh cốt truyện, nhân vật và một số đặc điểm khác, khi tiếp cận loại sáng tác này nên chú ý đến dung lượng. Vẫn biết đặc trưng của truyện cười là rất ngắn, song ngắn đến mức nào, tối thiểu là mấy dòng, thì chưa ai xác định cụ thể. Điều này dẫn đến tình trạng, trong thực tế có những văn bản cười hiện đại, vì quá ngắn, mà người ta ngần ngại gọi chúng là truyện.
Đọc 294 truyện trong chương “Truyện cười” của Tiếng cười dân gian Việt Nam (Trương Chính- Phong Châu sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn và giới thiệu), có lẽ không mấy ai quên truyện Tiếc da cọp:
TIẾC DA CỌP
Một lão hà tiện bị cọp bắt, thằng con giương súng định bắn thì lão đã vội kêu lên:
- Nhằm vào chân nó mà bắn kẻo trúng mình nó thì hỏng mất tấm da, bán không được giá!
Ngoài truyện trên, trong dân gian còn có một truyện rất ngắn khác:
KHÓC AI?
Người đàn bà nọ ngồi bên nấm mồ khóc thảm thiết. Một người qua đường hỏi “ khóc ai”, bà đáp:
Cha của người ấy là con rể của cha tôi, cha tôi là bố vợ của cha người ấy!
Hai truyện này đều chỉ dài 4 dòng ( 39 chữ). Tin rằng, đây là hai truyện ngắn nhất trong kho tàng truyện cười dân gian Việt . Song, nếu Khóc ai chứa một mẩu đối thoại thì Tiếc da cọp chỉ chứa một mẩu thoại ( một lời nói), và điều này làm cho cấu trúc của nó ( bao gồm một mẩu thoại và lời dẫn chuyện  nêu lên hoàn cảnh xuất hiện mẩu thoại) giống với Vô ýMối tình đầu hơn. Do đó, xét về dung lượng, về cấu trúc cũng như một vài tiêu chí khác, một khi đã gọi Tiếc da cọp là truyện thì cũng có nhiều cơ sở để gọi Vô ý Mối tình đầu là truyện.
Những điều chúng tôi vừa trình bày trên chứng tỏ, việc phân biệt “chuyện” và “truyện” nói chung, “chuyện cười” và “truyện cười” nói riêng, thực chất chỉ có ý nghĩa tương đối. Bởi lẽ, về phương diện nhận thức, ta luôn muốn vạch ra một đường ranh giới tách bạch, rạch ròi giữa các khái niệm này, trong khi đó ngoài thực tế, quan hệ giữa các đối tượng mà chúng phản ánh lại rất biện chứng. Cho nên, dù cố gắng đến bao nhiêu thì những dấu hiệu được coi là cơ bản mà ta đã chỉ ra ở trên cũng chỉ mới bao quát hầu hết các loại truyện chứ chưa phải bao quát tất cả các loại truyện vốn có trong thực tế.
Phải chăng đây là nguyên nhân chính dẫn tới việc sử dụng máy móc các cặp khái niệm trên, và kéo theo là những cuộc tranh luận vô bổ?
P.T.Đ
-----------------------------------
Đinh Gia Khánh (chủ biên) - Chu Xuân Diên - Võ Quang Nhơn,
Văn học dân gian Việt Nam, Giáo dục, 1997, tr. 362
Đỗ Đức Hiểu,
Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp
, Tạp chí Sông Hương, 6-2000, tr. 63.
Từ điển văn học
, tập II, KHXH, H. 1984, tr. 450.
Từ điển thuật ngữ văn học
, Giáo dục, 1992, tr. 64.
Nguyễn Thái Hòa -
Những vấn đề thi pháp của truyện
, Giáo dục, 2000, tr.11.
Lê Ngọc Tú - Nguyễn Sông Thao (Tuyển chọn, giới thiệu),
Truyện cười hiện đại, Văn hóa dân tộc, H. 1998,tr. 5-6.


PHAN THỊ ĐÀO
(nguồn: TCSH số 145 - 03 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.