Đôi lời về "Phạm Phú Thứ toàn tập"

15:32 15/09/2014

Khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh nhà nho yêu nước Phạm Phú Thứ không còn bị khuất lấp trong lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt chúng ta với một tâm thế mới.

Phạm Phú Thứ (1821-1882), hiệu Trúc Đường, biệt hiệu Giá Viên, người xã Đông Bàn, huyện Diên Phước, nay là xã Điện Trung, Điện Bàn, Quảng Nam – một xứ sở địa linh nhân kiệt – là người bẩm tính thông minh, nổi tiếng học giỏi, đỗ đầu các khoa, làm quan đại thần của triều đình nhà Nguyễn dưới hai đời vua Thiệu Trị, Tự Đức.

Trước đây qua “Tây hành nhật ký” (Nhật ký đi Tây) và một số bài thơ, bản tấu lẻ tẻ mà các nhà nghiên cứu tiếp cận được, Phạm Phú Thứ chỉ được biết đến và đánh giá là một vị quan thanh liêm, chính trực, yêu nước, có tư tưởng canh tân, đã nhiều lần dâng tấu, sớ trình bày về hiện tình đất nước, can ngăn vua bớt các thú vui để chăm lo triều chính… Ít ai biết rằng ngoài Giá Viên biệt lục (đã được NXB Đà Nẵng xuất bản năm 1999 dưới tên gọi Nhật ký đi Tây), cụ còn là tác giả của bộ sách đồ sộ Giá Viên toàn tập (gồm 27 quyển thơ - văn). Như một duyên may, năm nay, 15 năm sau khi in Nhật ký đi Tây, NXB Đà Nẵng lại tiếp tục cho ra mắt PHẠM PHÚ THỨ TOÀN TẬP (dày 2.620 trang) trong đó công bố toàn bộ bản dịch Việt ngữ hai bộ Giá Viên toàn tập và  Giá Viên biệt lục của cụ. Đây có lẽ là niềm may mắn của cụ và cũng là cho cả thế hệ hậu sinh bởi khi cầm bộ sách này trong tay thì hình ảnh cụ Phạm không còn bị khuất lấp trong lớp sương mù thời gian mà hiện ra rờ rỡ, rõ ràng trước mắt chúng ta với một tâm thế mới.


Qua hàng trăm thư khải, tấu biểu trong phần Văn của Giá Viên toàn tập, chặng đường làm quan hơn bốn chục năm với muôn nỗi vui buồn của cụ như đang trải dài trước mắt chúng ta. Đọc sách mà như đang đọc những trang bút ký, đang đọc những trang chính sử nước nhà viết rất súc tích cô đọng, với các chứng liệu chính xác giúp chúng ta khám phá thêm những suy nghĩ, hành động “trong triều ngoài quận” ở thời điểm nóng hổi của lịch sử nước nhà hơn 150 năm trước. Thời điểm mà hôm nay nhìn lại, chúng ta mới hiểu có lẽ là thời điểm khó khăn nhất từ trước tới đó, khi lần đầu tiên nước Việt Nam nhỏ bé, đói nghèo, phải đối đầu trực diện với một kẻ thù khác ta về màu da, xa lạ về tập tục và hơn hẳn về phương diện quân sự.

Say hoa, yêu nguyệt, mê đắm cảnh đẹp nước non, cảm xúc dồi dào, ngôn ngữ phong phú… Có thể nói gần ngàn bài thơ trong phần Thơ của Giá Viên toàn tập là ngần ấy bức họa, có động có tĩnh, có sự lung linh của màu sắc, có sự réo rắt của âm thanh… dẫn thẳng vào thẳm sâu tâm hồn người đọc. Chắc chắn phải rất hiểu, thậm chí phải rất phục văn tài của cụ Phạm, nên ông vua hay thơ như Tự Đức mới phê trên bức họa truyền thần cụ Trúc Đường bốn chữ THƯƠNG SƠN CAO ĐỆ (Học trò giỏi của Thương Sơn). Và sau này, chính vua Tự Đức cũng “bất giác tiếc thương chảy nước mắt” khi hay tin “viên chức văn học, biện luận đứng đầu sĩ phu Quảng Nam, ngày thường ai cũng thấy rõ” tạ thế. Nếu thơ là tấm gương phản chiếu chiều sâu tâm hồn và tính cách con người, thì đọc thơ cụ Phạm rồi đọc những lời Tựa, Bạt của các vị tiến sĩ ta, Tàu trong quyển Thủ bộ sách này, có lẽ chúng ta khỏi cần bàn thêm về văn tài cũng như nhân cách của cụ.

Với hàng trăm tư liệu chính trị, lịch sử, văn hóa phong phú và đa dạng, xác đáng và chân thực, chất chứa tư tưởng cải cách sâu sắc về đủ mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, ngoại giao… PHẠM PHÚ THỨ TOÀN TẬP chắc chắn sẽ có ích cho các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa học. Từ bộ Toàn tập này, có thể khai thác rất nhiều sử liệu thành văn quý giá để làm sáng tỏ thêm một giai đoạn lịch sử nước nhà đầy biến động trên mọi phương diện, để thấy ở Phạm Phú Thứ bề nổi trội, sự đóng góp tư duy thời đại sâu sắc. So sánh trong mối quan hệ giữa các nhà cải cách cùng thời sẽ thấy rõ nét đặc thù riêng một nhà lập ngôn của xứ Quảng vốn được coi là có truyền thống về tư tưởng duy tân. Lịch sử đã chứng minh tư tưởng duy tân ấy đã được nối dài từ Phạm Phú Thứ đến phong trào Duy Tân của chí sĩ Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp và rồi từ xứ Quảng lan tỏa khắp cả nước, góp phần thúc đẩy phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX và cả trong công cuộc đổi mới và hội nhập thế giới hiện nay.

Cầm bộ sách PHẠM PHÚ THỨ TOÀN TẬP trên tay, chúng ta phải cảm ơn các vị thức giả cùng thời cụ Phạm đã cùng gia đình, con cháu và cả các bậc đường quan của tình Quảng Nam với tấm lòng trọng thị kính ái Trúc Đường tiên sinh, ra sức thu thập, sắp xếp lại số di cảo của cụ, quyên tiền khắc bản in để lưu giữ cho đời một khối lượng trước tác hết sức đồ sộ, phong phú. Nghĩa cử ấy, tấm lòng ấy đáng trân trọng biết bao để hôm nay chúng ta có nguyên bộ Toàn tập với ngót 2.000 trang chữ Hán. PHẠM PHÚ THỨ TOÀN TẬP có lẽ là một toàn tập thơ văn hiếm thấy trong lịch sử thư tịch nước nhà của một vị nho sĩ yêu nước.

Hơn bốn chục năm làm quan, Phạm Phú Thứ một đời cúc cung tận tụy vì nước vì dân, đủ nêu gương sáng cho mọi thế hệ noi theo, thiết nghĩ chúng ta phải tri ân cho đúng tầm vóc của cụ trong lịch sử. Việc NXB Đà Nẵng cho ra đời bộ sách PHẠM PHÚ THỨ TOÀN TẬP hôm nay chính là một cách trị ân trân trọng và văn hóa vị quan ưu tú của đất Quảng.

---
* PGS.TS (Viện Sử học)


Nguồn: Chương Thâu - Tia Sáng
 
 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố  trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.

  • HÀ VĂN THỊNHTrong lịch sử của loài người, những vĩ nhân có tầm vóc và sự nghiệp phi thường chỉ có khoảng vài chục phần tỷ. Nhưng có lẽ rất chắc chắn rằng sự bí ẩn của những nhân cách tuyệt vời ấy gấp nhiều lần hơn tất cả những con người đang sống trên trái đất này. Tôi đã rất nhiều lần đọc Hồ Chí Minh Toàn tập, nhưng mỗi lần đều trăn trở bởi những suy tư không thể hiểu hết về Người.

  • HOÀNG NGỌC VĨNHHồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh tụ xuất sắc của phong trào công nhân và cộng sản quốc tế, Chủ tịch Đảng Cộng sản Việt Nam, là người Việt Nam đầu tiên soạn thảo và ban bố các sắc lệnh tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân Việt Nam.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “Đá vàng” của Đinh Khương - NXB Hội Nhà văn 2004)

  • NGÔ XUÂN HỘITính tình phóng khoáng, Trần Chấn Uy chắc không mặn mà lắm với những cuộc chơi mà luật chơi được giới hạn bởi những quy định nghiêm ngặt! Ý nghĩ trên của tôi chợt thay đổi khi mở tập thơ Chân trời khát của anh, ngẫu nhiên bắt gặp câu lục bát: “Dòng sông buồn bã trôi xuôi/ Đàn trâu xưa đã về trời ăn mây”...

  • TRẦN THUỲ MAI( “Thơ Trà My” của Nguyễn Xuân Hoa - NXB Thuận Hoá, 2005)

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc tập thơ Lửa và Đất của Trần Việt Kỉnh - Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà, 2003)

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO(Đọc tập ký ''Trên dấu chim di thê'' của Văn Cầm Hải- NXB Phương - 2003)

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Huế trong thơ Nguyệt Đình)

  • NGUYỄN VĂN HOA(Nhà xuất bản Lao Động phát hành 2004)

  • PHẠM NGỌC HIỀNChưa lúc nào trong lịch sử Việt , các nhà văn hoá ta lại sốt sắng ra sức kêu gọi bảo tồn nền văn hoá dân tộc như lúc này. Xu hướng toàn cầu hoá nền kinh tế công nghiệp cộng với xa lộ thông tin đã mang theo những ngọn gió xa lạ thổi đến từng luỹ tre, mái rạ làm cho "Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều". Mà "Trách nhiệm của mỗi dân tộc là phải thể hiện rõ bản sắc của mình trước thế giới" (R. Tagor).

  • NGUYỄN THANH MỪNG                Miền duyên hải Nam Trung bộ gần gũi với Tây Nguyên lắm lắm, Bình Định gần gũi với Gia Lai lắm lắm, ít nhất ở phương diện địa lý và nhân văn. Ừ mà không gần gũi sao được khi có thể chiều nghe gió biển Quy Nhơn, đêm đã thấm trên tóc những giọt mưa Pleiku. Giữa tiếng gió mưa từ nguồn tới bể ấy nhất thiết bao nhiêu nỗi lòng ẩn chứa trong tiếng thơ diệu vợi có thể chia sẻ, bù đắp được cho nhau điều gì đó.

  • NGUYỄN QUANG HÀSau ba tập: Thơ viết cho em - 1998, Lối nhớ - 2000, Khoảng trời - 2002, năm 2004 này Lê Viết Xuân cho xuất bản tập thơ thứ tư: Đi tìm.

  • NGÔ MINHThật may mắn và hạnh phúc là Hoàng Phủ NgọcTường đã vượt qua được cơn tai biến hiểm nghèo của số phận, để được tiếp tục đến với đọc giả cả nước trong suốt mười một năm nay. Đối với tôi, khi bên chiếu rượu ngồi nghe anh Tường nói, hay đọc bút ký, nhàn đàm, thơ của Hoàng Phủ là những lần tôi được nghe các “cua” ngoại khóa sâu sắc về nhân văn và nghề văn.

  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.

  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.