Đôi điều về đọc thơ, phê bình thơ qua một trường hợp cụ thể

08:52 04/09/2008
HỒNG NHULTS: Những cuộc trao đổi mang tính nghề nghiệp về thơ ở tầm "vĩ mô" dường như đang co lại ở tầm "vi mô". Các ý kiến khác nhau, thậm chí ngược nhau trong tranh luận học thuật là chuyện bình thường. Song, sẽ không bình thường khi công cuộc đổi mới của Đảng đã bước vào nền kinh tế tri thức mà vẫn còn những "tư duy thơ" theo cơ chế suy diễn với những mục đích gì đó, ngoài thơ.Nhằm rộng đường dư luận, Sông Hương xin được trao đổi lại một trường hợp cụ thể sau đây.


Tình cờ trong tay tôi có tờ báo Quảng Bình chủ nhật số 4493 ra ngày 21/7/2002 đăng bài "Hồn quê đọng giữa mây trời" (đọc tập thơ "Đám mây lơ lửng" (1) của Hoàng Vũ Thuật -HVT) của tác giả Tạ Đình Nam (TĐN). Đây là một trong số bài tham luận trong cuộc hội thảo do Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình tổ chức vừa qua trong dịp tập thơ này đoạt giải A Giải thưởng VHNT Lưu Trọng Lư của tỉnh Quảng Bình.
Sau khi đưa ra những nhận định thành công của tập thơ mà tập trung nhất là "tình cảm đặc biệt của Hoàng Vũ Thuật với làng quê, với bao kỷ niệm nơi chôn rau cắt rốn"... tác giả đã dành phần quan trọng để vạch ra những thiếu sót, khuyết điểm, một số điều cần bàn (chữ của TĐN).
Nhận thấy bài phê bình có nhiều điều không ổn, không được; tôi xin bàn tới những điều cần bàn đó.
1. Tạ Đình viết: "Quan niệm của nhà thơ đối với cuộc sống thực tại vẫn còn nhiều uẩn khúc. Đọc một số bài trong "Đám mây lơ lửng" nhiều lúc tâm hồn ta cảm thấy bâng khuâng một nỗi buồn đối với cuộc đời thực tại". Tác giả dẫn câu "Ta vô vi trong khói hương cầu nguyện" (Cây trần gian) và hạ bút: "Do ảnh hưởng nhất định của học thuyết vô vi nên có lúc nhà thơ có cái nhìn cái nghĩ đối với cuộc sống thực tại còn mang nặng tâm trạng bi quan, buồn chán, thiếu niềm tin".
Tôi thực sự giật mình, ngơ ngác tự hỏi thầm: tác giả nói gì vậy? nghĩ gì vậy? Hay là mình đọc nhầm? Không! Rõ ràng giấy trắng mực đen. Quái lạ! Tôi dở tập thơ của Hoàng Vũ Thuật đọc lại bài "Cây trần gian" 5 khổ mỗi khổ 3 câu. Và đây là khổ thứ hai: "Những giọt lệ từ lâu quên chảy/ Giờ theo cùng ánh sáng hoà tan/ Ta vô vi trong khói hương cầu nguyện"... Có thể "tự sự hoá" bài thơ như sau: Mùa Phật Đản 2540 (1996) nhà thơ đi xem lễ, nhìn thấy những ngọn nến cháy như từ lâu quên cháy, giờ ròng ròng như những giọt lệ, hoà tan vào bao nhiêu ánh sáng lung linh của đêm hội lễ chùa. Cả vầng trăng lấp ló sau cành hoa đại, trăng cũng hiện về như quá khứ chợt hiện về. Và nàng ở đằng kia thì lơ đãng, nàng chẳng nhìn thấy gì cả, niềm vui, nỗi đau, cùng sự xô đẩy của đám đông xem hội như vòng luân hồi xô đẩy... Nhà thơ thốt nhiên xao động, nghĩ về lẽ đạo, về cảnh đời, về tình người trong trần gian cuộc thế...
"Ta vô vi trong khói hương cầu nguyện", tôi nghĩ đây là một câu thơ vừa đúng tâm trạng vừa hay! Có gì đâu mà tác giả phê bình Tạ Đình nặng lời qui chụp: "mang nặng tâm trạng bi quan buồn chán, thiếu niềm tin"? Thiết nghĩ cái "vô vi" mà Hoàng Vũ Thuật nói ở đây là cái vô vi của cung bậc tình cảm, của sự giằng kéo con tim vì... nàng; không phải là học thuyết vô vi như Tạ Đình đã gán ghép một cách thô thiển. Đó là chưa nói trong bài của mình, Tạ Đình đã dẫn giải sai lệch về học thuyết vô vi. Anh viết: "Như chúng ta đã biết, vô vi là tâm điểm của học thuyết Trang Tử..." Không phải! Vô vi chính là học thuyết của LãoTử (tức Lão Đam), nhà tư tưởng cổ đại Trung Hoa (vào khoảng thế kỷ 5-6 trước Công nguyên). "Đạo Đức kinh" là tác phẩm triết học của Lão Tử. Nét nổi bật của học thuyết Lão Tử nêu trong sách này là: Nó có một số nhân tố duy vật luận và phép biện chứng thô sơ. Lão Tử thừa nhận sự tồn tại của thế giới khách quan với các hiện tượng khách quan; thế giới đó luôn vận động theo những quy luật khách quan. Lão Tử gọi đó là ĐẠO. Còn ĐỨC là tên gọi các khái niệm của sự biểu hiện đặc thù của ĐẠO trong từng hiện tượng cụ thể, ví dụ như lửa thì đức của nó là nóng và bốc lên cao, như nước thì đức của nó là mềm và chảy xuống chỗ thấp. Lão Tử tuyệt đối hoá tác dụng và tính phổ biến của quy luật khách quan rồi từ đó rút ra thuyết vô vi, thực tế là phục tùng, giao phó số phận cho những quy luật đó, phủ nhận và thủ tiêu mọi khả năng đấu tranh và sáng tạo của con người.
Còn Trang Tử (tức Trang Chu, 355 đến 275 trước Công nguyên) được coi là người kế thừa học thuyết Lão Tử, nên người đời sau thường gọi là "Học thuyết Lão - Trang". Hoa kinh là tác phẩm triết học của ông. Trang Tử đã hệ thống hoá sâu sắc phần chủ nghĩa duy tâm của Lão Tử, còn phần phép biện chứng thì ông hạ thấp nó xuống thành thuyết tương đối luận. Do thế, ông chủ trương mạnh mẽ với "chủ nghĩa xuất thế" (tức thoát tục).
Như vậy Lão, Trang tuy người ta vẫn gọi gộp nhưng vẫn là hai. Học thuyết của các ông có điểm giống nhau, nhưng lại khác nhau, không thể lẫn lộn. Xin lỗi, tôi phải nói dài dòng như vậy vì theo tôi, người viết phải biết tôn trọng người đọc và về một mặt nào đó, phải xem người đọc là thầy của mình. Bút đã sa xuống rồi thì rành rành rọt rọt, đừng có dại dột mà nói, viết lơ mơ; dẫn giải sai sót!
2.Tác giả bài phê bình còn dựa vào một số câu, một số đoạn trong các bài thơ khác rồi vận dụng nhận thức vừa khô cứng vừa tư biện của mình để phê phán, bất chấp đặc trưng, ngữ ngôn, thi pháp... của thể loại. "Một pho tượng tạc bằng nỗi cô đơn/ Giữa dòng người lạc lõng " (Ngã tư thánh đường). Chỉ có một chữ "cô đơn" trong câu mà tác giả lên án là "nhà thơ cảm thấy mình cô đơn trong dòng chảy cuộc sống"(!) Rồi: "Đời người bao nhiêu khổ hạnh/ Niềm vui một kiếp bèo trôi" (Thi sĩ đen) là "buồn chán thất vọng"(!) Đến: "Người ơi người hay trăng muộn/ Mọc xế góc đời ta đây/ Ta mong manh và lơ lửng/ Vô hồn giữa những đám mây" (Vầng trăng hiền thục) là "mất niềm tin vào con người" v.v... và v.v...
Thơ là tình cảm, là tâm trạng. Đã là tâm trạng thì mỗi người mỗi vẻ. Đưa nó vào nghệ thuật một cách chân thực, tất cả đều được cảm thông, đều được trân trọng. Có như thế mới đa dạng, mới phong phú và mới thơ! Không ai lại có thể dở hơi áp đặt tâm trạng của nhà thơ phải khuôn bó theo như tâm trạng của mình, càng không nên suy diễn chủ quan rồi rút ra kết luận vội vàng hoặc phiến diện. Cuộc sống thực tại giờ đây bên cạnh bao nhiêu sự tích anh hùng, bao nhiêu hành động cao đẹp của con người mới, của xã hội mới hướng tới tương lai rạng rỡ; còn có cũng bao nhiêu là tệ nạn, là tham nhũng, dối gian lừa lọc... có cả những sự việc, những vụ án khủng khiếp làm ta đau đớn tận tâm can. Nhà thơ lẽ nào lại không xông vào cuộc bằng ngòi bút của mình, lại thờ ơ hoặc lại chỉ tô vẽ bên ngoài? Sự đau buồn trong thơ là một vẻ đẹp hiện hữu, hơn nữa là một vẻ đẹp khách quan. Tôi nhớ một nhà thơ đã nói đại ý: "Một trong những quyền của thi sĩ là quyền được buồn!" Như vậy, đau buồn đâu phải là thứ tình cảm không nên, tình cảm lạc điệu với cuộc sống thực tại? Đôttôiepxki chẳng đã từng nói: "Cái Đẹp cứu rỗi thế giới" đó sao! Lẽ nào trong Cái Đẹp của Đôt lại không bao gồm cả vẻ đẹp của sự buồn đau? Các nhà thơ buồn đau, thậm chí thất vọng đi nữa cũng là để nói lên điều muôn thuở mà con người trong cuộc sống luôn mong hướng tới: niềm vui và hi vọng! Từ khi Đảng ta chủ trương sự nghiệp đổi mới đến giờ (trong đó có đổi mới văn học nghệ thuật), điều này chẳng còn là "vùng cấm", chẳng còn là lạ đối với đông đảo người đọc nữa, kể cả những người đọc bình thường...
Hoàng Vũ Thuật viết: "Cuộc sống quăng tôi lên phía trước/ Dù gai đâm buồn tẻ dành cho..." (Người đàn bà ngồi bên cửa sổ) hay một đoạn trong "Những đứa trẻ không quê" mà Tạ Đình Nam đã dẫn ra: "Tôi hỏi gió, gió lặng thầm bay đi/ Tôi hỏi sương, sương rơi ngoài cửa sổ/ Tôi hỏi sao đêm, sao đêm ngấn lệ/ Tôi hỏi ánh chiều, chiều xế bên sông"... thì rõ ràng đấy là phương hưóng, một phương hướng tích cực, không chịu lùi trước khó khăn; đấy là lời giải đáp, một lời giải đáp đầy tính nhân văn rồi! Vậy không biết vì sao và không thể nào hiểu nổi khi tác giả Tạ Đình lại nói ngược, lớn tiếng la lên là: "nhà thơ mất niềm tin, mất phương hướng, tự đi tìm nguyên nhân nhưng vẫn không có lời giải đáp!". Hoặc là Tạ Đình Nam muốn thơ phải trình bày phương hướng, lời giải đáp một là hai là... như trong văn kiện, hoặc anh không đọc khổ cuối của bài thơ trên đây: "Tôi nhìn ra bốn phía mênh mông/ Đồng trĩu phù sa nhà cao mái phố/ Và tôi bỗng thấy mình xấu hổ/ Khi xuân về cùng những đứa trẻ không quê"!.
Tác giả bài tham luận còn một nhầm lẫn quan trọng, nếu không muốn nói là tai hại, khi cho rằng "thời kỳ 1930-1932 là thời kỳ các nhà thơ mới ta đang lột xác, từ bỏ tháp ngà nghệ thuật của mình để tìm đường về với Cách mạng!" bởi vì theo anh "các nhà thơ mới bế tắc trong thế giới quan và phương pháp sáng tác! ".
Phong trào thơ mới Việt Nam xuất hiện từ 1932 trở về sau, mà một trong những người khởi xướng là Phan Khôi với bài "Tình già". Vậy thì từ năm 30,31 làm gì có phong trào đó để các nhà thơ mới bế tắc?
Thời kỳ 1930-1932 càng không phải là thời kỳ lột xác để tìm đường về với Cách mạng của các nhà thơ mới. Để khỏi làm mất thì giờ của bạn đọc, tôi xin phép không phải dẫn giải nữa. Trong tiến trình văn học Việt , đến các năm 1935,1936 phong trào thơ mới đã chiếm lĩnh trên mọi thi đàn, và là buổi cực thịnh của nó. Trong nhiều sách báo, kể cả các giáo trình văn học, đã có nhiều nhận định và phân kỳ về giai đoạn này, chúng ta có thể đọc bất cứ ở đâu.
Hoàng Vũ Thuật là nhà thơ trưởng thành trong chống Mỹ, cứu nước. Sáng tác của anh nở rộ và đi sâu vào các ngõ ngách của cuộc sống từ sau công cuộc đổi mới của đất nước. Trong giàn hợp xướng thi ca hôm nay, Hoàng Vũ Thuật đóng góp phần của mình bằng một phong cách riêng, giọng điệu riêng không giống ai! Đó là-theo tôi-trên cảm hứng tình yêu, nói cách khác là lấy tình yêu "anh và em" làm chỗ tựa, anh mở rộng ra và len lỏi vào các góc nhỏ, khuất của nhiều mặt cuộc sống: trời trăng sông biển, nhân tình thế thái, chuyện đạo chuyện đời... cả những ngày tháng cụ thể và những con số 1,2...thảy đều lấp lánh ý nghĩa tình người trong đời sống chẳng phải dễ dàng gì hôm nay. Thơ Hoàng Vũ Thuật có nhiều khi nhoè nghĩa, nhoè cả tứ (cái nhoè của ý tại ngôn ngoại), tạo nên một cảm giác lạ lùng, khắc khoải, day dứt khôn nguôi. Anh không hề bị ảnh hưởng hay "đồng điệu tâm hồn" (chữ của Tạ Đình ) với các nhà thơ mới thời tiền chiến. Sự đau buồn của lớp nhà thơ như anh khác xa một trời một vực với sự buồn chán bế tắc của một số nhà thơ mới thời trước. Tôi nói một số bởi vì hoàn toàn không đồng ý với cách nói vơ đũa cả nắm của Tạ Đình : "các nhà thơ mói bế tắc trong thế giới quan và phương pháp sáng tác."Các nhà thơ mới trứ danh như Thế Lữ, Phạm Huy Thông, Xuân Diệu, Huy Cận, Anh Thơ... với những tác phẩm như "Nhớ rừng", "Tiếng địch sông Ô", "Gửi hương cho gió", "Lửa thiêng", "Bức tranh quê" v.v...mà là bế tắc cả phương pháp cả cách nhìn à?
3. Một chi tiết trong phần kết của bài phê bình, tác giả Tạ Đình trở đi trở lại và nhấn mạnh: "nhà thơ (HVT) cô đơn, buồn chán, thiếu niềm tin để rồi đi tìm phương hướng giải thoát vào một thế giới khác".
Thế giới nào vậy? Anh suy ra làm tôi nghĩ mãi... Vô vi, Phật, Chúa hay thậm chí "tự giải thoát" bằng một phương tiện nào đó-chiếc cà vạt thay dây chẳng hạn-để rời cõi dương thế?... Tất cả đều buồn cười, đều oan uổng đối với một nhà thơ đầy trách nhiệm, đầy nhân bản với cuộc đời và đầy tình yêu mê đắm với con người như Hoàng Vũ Thuật!
Vậy thì cái gì đây? Tôi không tin là anh Tạ Đình quy kết Hoàng Vũ Thuật về chính trị. Điều này quá hoang đường! Song cái cách viết, cách nhấn của tác giả trong bài viết có dấu hiệu của sự biểu hiện ý định đó.
Nhân đây, tôi xin nói thêm một chút. Trong hai bài thơ... thất tình cuối tập "Đám mây lơ lửng" mà tôi cho là khá thành công, khá độc đáo của nhà thơ, đã bị tác giả bài báo phê: "nhà thơ cảm thấy bi quan về cả số phận tương lai của những đứa con tinh thần của mình". "Thơ chắp cánh cho tâm hồn bay lên chứ không bao giờ trở thành thanh gươm tự giết chết trái tim mình..."(!?)
Chúng ta hãy xem Hoàng Vũ Thuật viết ra sao: "Câu thơ như quả dại rừng sâu/ Như mái chèo bỏ sông đi biền biệt/ Như dòng chữ vẹo xiên vật vã cơn đau..." (Sao ngày xưa trăng tròn làm chi ) và: "Vì anh biết những bài thơ anh viết/ Là thanh gươm tự giết trái tim mình" (Những bài thơ anh viết).
Ôi! Đọc thơ như thế, phê bình thơ như thế... thì còn bàn luận với nhau làm sao được!

Tôi không hề có ý tranh luận hoặc trao đổi gì với anh Tạ Đình cả, tôi vốn rất không quen, thật lòng là rất ngại chuyện này. Nhận thức rằng giờ đây dân trí ta đã phát triển khá cao, xã hội và độc giả đối với văn nghệ chân chính đã từ lâu có con mắt nhìn xanh trong và ưu ái, chấp nhận tất cả những gì cần chấp nhận của các nhà thơ, miễn là trung thực và xây dựng. Đọc bài anh viết; chẳng đặng đừng, tôi phải nêu lên ý kiến của mình. Đó là lẽ thường tình vậy!
Huế, 31-7-2002.
H.N
(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)
-------
(1) NXB Hội Nhà văn - Hà Nội 2000

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐỨC TÙNGVô thức là những hoạt động tinh thần mà chúng ta không thể nhận thức ra được. Trong tác phẩm nổi tiếng của mình, Diễn dịch các giấc mơ, Freud lần đầu tiên đề nghị khái niệm vô thức (unconscious) để phân biệt với ý thức (conscious) và tiềm thức (preconscious), sau này gọi là lý thuyết topo.

  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...