Đôi điều muốn được trao đổi nhân đọc quyển "Côn đảo"

11:02 18/11/2009
NGUYỄN HỮU NGÔ Cuốn sách đồ sộ "Côn Đảo" của Nhà xuất bản Trẻ (1996) là một nguồn tư liệu quý mà những người làm công việc nghiên cứu lịch sử cách mạng Việt Nam không thể không tìm đến. Vì vậy sự chính xác về thông tin đòi hỏi phải khẳng định. Và cũng vì vậy tôi có đôi điều xin thưa với ban biên tập Nhà xuất bản Trẻ về những thông tin về nhân vật Mai Tấn Hoàng được coi là người tử tù cách mạng.

(Ảnh: c.1asphost.com)

Trang 459, trong phần danh sách những người bị án tử hình có đoạn:

Mai Tấn Hoàng, sinh năm 1944, bị bắt năm 1968, nguyên là trung đội trưởng lực lượng thanh niên nổi dậy vũ trang thành phố Huế trong Tết Mậu Thân. Sau giải phóng, do bị xử lý oan, bị giam giữ 3 tháng, sau đó đi kinh tế mới, rồi lang thang từ Đắc Lắc đến Bà Rịa, vào tu trong chùa. Hiện nay đã được xét lại, giám định thương tật là thương binh hạng hai, nghỉ hưu ở thành phố Huế.

Theo chỗ tôi được biết thì ông Mai Tấn Hoàng chính là Mai Ngụ, can tội hình sự, ra tòa đại hình 1965 tại Đà Nẵng, bị kết án tử hình và bị giam giữ tại trại giam Thừa Phủ, Huế. Mùa hè 1968, ông Mai Ngụ được đưa ra Côn Đảo. Từ đó đến năm 1975, tội danh  và bản án của ông Mai Ngụ không có lý do gì để thay đổi cả. Những thông tin này có thể kiểm tra, dựa vào công báo của chính phủ Sài Gòn năm 1965 hiện còn lưu trữ tại thư viện thành phố Hồ Chí Minh. Cũng  có thể kiểm tra qua tìm gặp tiếp xúc với những nhân vật đã từng ở trại giam Thừa Phủ, những năm 65, 66, 67 và 68. Ở Huế có các ông Nguyễn Duy Thu Khiết, ông Lê Văn Sắt, ông Nguyễn Nam Đông và Nguyễn Hữu Ngô, kẻ viết những dòng này. Ở Đà Nẵng có các ông Hồ Duy Lệ (hiện là tổng biên tập báo Quảng Nam) ông Võ Thành Lê (phó tổng biên tập báo Đà Nẵng).

Phải chăng có việc nhầm lẫn trên của sách Côn Đảo là do một loạt bài báo của ông Lê Quang Vịnh trên báo Đại Đoàn Kết "Đi tìm người tử tù mất tích" đã làm xúc động dư luận một thời, riêng đối với chúng tôi, đã gây biết bao kinh ngạc. Và một vở kịch đã được trình diễn, đã được dựng thành phim màn ảnh nhỏ của tác giả Ngọc Tranh lấy cảm hứng từ nhân vật cách mạng Mai Tấn Hoàng này, đã gây cho chúng tôi bao sự bẽ bàng...

Những sự việc coi ra thật kỳ cục: thêu dệt, đặt điều thả cửa, biến không thành có... Tuy nhiên đối với ông Mai Ngụ thì sao? Tôi xin thưa. Ông Mai Ngụ là một con người trung thực, đáng nể. Ông đã ngượng ngùng biết mấy khi được xưng tung là đã có công thế này, đã đạt thành tích thế kia. Ông đã cấn cái biết bao nhiêu khi những bổng lộc gọi là chính sách đã ùa đến với ông... Và ông đã bỏ đi. Ông đã vứt bỏ không thương tiếc cái thành tích cách mạng dõm mà người ta đã gán cho ông, bỏ luôn cả cái sở nhà và sở đất người ta đã ban cho ông trên cả mọi điều mơ ước. Theo chỗ tôi được biết thì ông Mai Ngụ đã thanh thản về ở Pleiku, trên một vùng đồi thật yên tĩnh ở thành phố núi vô cùng dễ thương ấy...

Mọi sự đã rồi. Tất cả sẽ qua đi và mọi điều sẽ được lãng quên. Tuy nhiên cuốn sách "Côn Đảo" vẫn còn đó, vẫn nằm trong kho tàng tư liệu lịch sử cách mạng của thời đại chúng ta. Những thông tin về người tử tù Mai Tấn Hoàng chỉ là một sai sót rất nhỏ của cuốn sách. Tuy nhiên, theo chúng tôi cần phải được đính chính.

N.H.N
(126/08-99)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH TÂM    

        …đi về đâu cũng là thế… 

  • GIÁNG VÂN

    LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.

  • HỒ THẾ HÀ

    Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất sắc trong thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cuộc sống và trang thơ của ông đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và giải mã ở tất cả các cấp độ thi pháp với giá trị độc sáng riêng của chúng. Người đến sau khó có những phát hiện gì thêm từ thế giới chỉnh thể nghệ thuật ấy.

  • NGUYỄN THÀNH NHÂN

    Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.” 

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
    Nhân 17 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Văn Bổng (11/7/2001 - 11/7/2018)    

    Nói đến Nguyễn Văn Bổng trước hết chúng ta nói đến một nhà văn xứ Quảng anh hùng, giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực dồi dào, với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống, là nói đến một khối lượng lớn những tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký có giá trị… (Nhà thơ Hữu Thỉnh).

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân. 

  • NGUYỄN DƯ

    Đang loay hoay thu dọn lại tủ sách bỗng thấy cuốn Dã sử bổ di. Tự dưng muốn đọc lại. Nhẩn nha đọc… từ đầu đến cuối!

  • NGUYỄN VĂN SƯỚNG

    Đi như là ở lại(*) là tập bút ký viết về những vùng đất Lê Vũ Trường Giang đã đi qua trong hành trình tuổi trẻ. Tác phẩm dày gần 300 trang, gồm 15 bút ký.

  • TRUNG TRUNG ĐỈNH

    Khóa học đầu tiên của trường viết văn Nguyễn Du do ý tưởng của ai tôi không rõ lắm. Nhưng quả thật, sau 1975, lứa chúng tôi sàn sàn tuổi “băm”, cả dân sự lẫn lính trận đều vừa từ trong rừng ra, đa số học hết cấp III, có người chưa, có người đang học đại học gì đó.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Tuổi thơ bao giờ cũng chiếm một phần tất yếu trong ký ức chúng ta. Sống cùng tuổi thơ là sống bằng mộng, bằng mơ, bằng cái hồn nhiên, cái thiện ban sơ, thiên đường đuổi bắt.

  • LIỄU TRẦN

    Lưu lạc đến tay một tập viết nhỏ “Thiền sư ở đâu”, tác giả Bùi Long. Chợt nghĩ, thời này là thời nào còn viết kiểu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Có thể gọi đây là cuốn hồi ký đặc biệt vì nhiều lẽ. Trước hết, vì tác giả hình như chưa viết báo, viết văn bao giờ. Bà là PGS.TS chuyên ngành Dược, nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại có “thế mạnh” hơn nhiều cây bút khác - Cao Bảo Vân là con gái của tướng Cao Văn Khánh (1916 - 1980).

  • HOÀNG THỤY ANH    

    Đỗ Thượng Thế là giáo viên dạy mỹ thuật. Ấy thế mà, nhắc đến anh, người ta luôn nghĩ đến nhà thơ trẻ. Cũng đúng thôi, nhìn vào hoạt động thơ ca và các giải thưởng của anh mới thấy cuộc chơi chữ đã lấn át hoàn toàn sân họa.

  • DO YÊN     

    Trong không khí kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà văn - cựu chiến binh Nguyễn Quang Hà đã trình làng tiểu thuyết Nhật ký Đông Sơn, góp phần làm phong phú các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân.

  • TRẦN HOÀNG

    (Đọc "Giai thoại Nguyễn Kinh"
    Triều Nguyên sưu tầm - biên soạn. Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên 1990)

  • LÊ KHAI

    "Tuổi mười ba" tập thơ của Lê Thị Mây (Nhà xuất bản Thuận Hóa 1990) gợi người đọc nhận ra tính cách của nhà thơ.

  • NGUYÊN HƯƠNG    

    1. Có nhiều cách để người ta nói về Tết. Đó là một dịp để con người nghỉ ngơi, gặp gỡ, hàn huyên, và dù có được chờ đợi hay không thì Tết vẫn tới.

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG

    Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BA   

    Mùa Xuân là một chủ đề được thi hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay đó là những mùa xuân tha hương buồn bã đến chết người.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Trong công trình Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), trên cơ sở nghiên cứu về trí thức người Việt từ phương diện xã hội học lịch sử, GS. Trịnh Văn Thảo xếp Nguyễn Vỹ vào thế hệ thứ 3 (thế hệ 1925) trong số 222 nhân vật thuộc ba thế hệ trí thức Việt Nam (1862, 1907 và 1925)(1).