NGUYỄN HIỆP
Thường tôi đọc một quyển sách không để ý đến lời giới thiệu, nhưng thú thật, lời dẫn trên trang đầu quyển tiểu thuyết Đường vắng(1) này giúp tôi quyết định đọc nó trước những quyển sách khác trong ngăn sách mới của mình.
Ảnh: internet
“Người ta thường dễ dàng nhận ra những vết bầm tím trên thân thể người phụ nữ, chứ mấy ai thấy trái tim người đàn ông đang rỉ máu.”
Một góc nhìn khác. Một cảm thông khác. Và chắc chắc những luận đề đưa ra sẽ không như thói quen, không như đa phần, không như xu hướng cảm tính, một chiều thông thường.
Quả vậy! Quyển tiểu thuyết không đồ sộ về hình thức này, chỉ với 300 trang in khổ 13x20.5 cm khá khiêm tốn và lối dẫn chuyện bình dị, nhưng tác giả đã xây dựng được những dòng chảy bi kịch có chọn lọc cho một thế giới đau khổ và cuồng say, bằng một nhãn quan rộng rãi, một nhiệt huyết phẫn nộ nhưng điềm tĩnh, bằng một giọng văn nữ tính nhưng thấu đáo trước/ trong/ với những cùng cực, những chuyển động, những mở rộng và cả những quy định, định kiến của thời đại mình đang sống.
Hiệu Constant, tên thật Lê Thị Hiệu, hiện đang sống và viết tại Paris. Với sự kết hợp hai nền văn hóa Việt - Pháp trong người nên giọng văn chị có một sinh khí khác lạ, nó chưa hẳn là đa giọng điệu hay thể hiện sự giằng co nào đó. Căn bản vẫn là đề tài thực trạng nhưng dưới ngòi bút như vậy nó liên tục đem đến cho người đọc sự thú vị khi lần lượt đọc qua từng câu, từng chữ, từng ý.
Chẳng hạn, ta thử khảo sát một trong năm mạch truyện chính là cuộc tình của Bertrand và cô sinh viên đang nghiên cứu kiến trúc sử tên Hiền. Họ yêu nhau, họ vượt qua được rào cản về ngôn ngữ, về văn hóa bằng cách tiếp nhận thêm, hiểu thấu thêm, đến mức họ đã thực sự rung động, thực sự chia sẻ chân thành và tận cùng với nhau mọi điều, từ những biểu lộ tinh tế, từ những truyền thống gia đình sâu kín, từ những khát vọng, ước mơ… Vì vậy mà Tình yêu của họ, thoạt nhìn tưởng là tuyệt đỉnh, tưởng là tình yêu lý tưởng, tưởng là ta bà nhân gian này họ là cặp đôi được Thượng đế yêu chiều, thế nhưng họ lại vấp phải một nỗi khổ đau khác, là sự nhận diện ra giới tính thật của mình qua từng giây, từng phút, từng giờ của Bertrand. Cái gọi là tình yêu đồng tính đang xâm thực một cách cuồng bạo vào Hạnh phúc, vào Tình yêu của Bertrand và Hiền. Và tất nhiên cuối cùng cái bi kịch âm ỉ ấy đã trở thành bi kịch hiển hiện, bi kịch vĩnh viễn. Dù cho Bertrand đã đau rát, đã tuân mệnh, đã chấp nhận đi vào “con đường vắng” một mình thì cái bi kịch kinh khủng nhất lại rơi trùm xuống đời sống của Hiền. Hiền bị đột ngột rơi vào tận đáy cùng của trạng thái cô đơn, của thế giới cô đơn, của đời sống cô đơn, của những cơn khát không bao giờ giải khát được, của nỗi bơ vơ, lạc loài.
Bertrand là một trí thức chân chính, anh biết tất cả những điều đó.
Anh đau với nỗi đau của người mình yêu và đau với nỗi đau chính anh, nhưng anh, dù nỗ lực tới cùng, vẫn cứ bất lực. Anh đã cố gắng làm những công việc có ý nghĩa lớn lao hơn cho cộng đồng, cho xã hội, anh đi tận châu Phi để tìm hiểu, chia sẻ với những thân phận cùng khổ để rồi thay mặt họ cất lên tiếng nói trong cuộc Hội thảo quốc tế về Nhân quyền, anh đi đến tận những chiến trường nóng như Afganistan để tìm hiểu, đưa ra ánh sáng những che giấu liên quan đến binh lính Pháp, anh cố gắng đánh động lòng trắc ẩn của con người, cố gắng “gạn lọc lòng quả cảm từ chính những sự tuyệt vọng”, anh đã cho đi tất cả mà không đòi hỏi lại gì… Ngay cả khi sống được như vậy, cao cả được như vậy thì Bertrand đã thực sự giải thoát cho mình và cho người mình yêu ra khỏi bi kịch chưa? Tất cả những nỗ lực ấy cuối cùng cũng luẩn quẩn trong câu hỏi căn bản về hạnh phúc, về tình yêu mà không sao chạm được câu trả lời xác đáng.
Đâu phải cứ tạo ra một ảo ảnh thế giới hay một cực thực ám ảnh mới được xem là một tiểu thuyết hay. Đường vắng, theo tôi là một tiểu thuyết hay, xúc động bởi nó thực một cách rộng mở, thậm chí có nhiều biên độ bị phá vỡ để nhìn nhận lại, bởi sự thôi miên độc giả của một tác giả có hiểu biết đa chiều và bởi những vấn đề tâm lý cá nhân đã được đào sâu tới tận gốc rễ.
N.H
(SH319/09-15)
---------------
(1) Tiểu thuyết Đường vắng, Nxb. Hội Nhà văn, 2013.
TRIỀU NGUYÊN
1. Đặt vấn đề
Nói lái được sử dụng rộng rãi trong giao tiếp thông thường, và trong văn chương (một lối giao tiếp đặc biệt). Để tiện nắm bắt vấn đề, cũng cần trình bày ở đây hai nội dung, là các hình thức nói lái ở tiếng Việt, và việc sử dụng chúng trong văn chương.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
(Đọc tiểu thuyết “Huế ngày ấy” của Lê Khánh Căn, Nxb. Quân đội nhân dân, 2006).
HỒ ĐĂNG THANH NGỌC
(Đọc “Song Tử” của Như Quỳnh de Prelle)
VŨ TRỌNG QUANG
Trần Thiên Thị viết tắt TTT hay đọc là 3 Tê, tôi liên tưởng đến những T thơ ca:
GIÁNG VÂN
Tôi gọi chị là “ Người truyền lửa”.
LGT: Trong khi giở lại tài liệu cũ, tình cờ chuỗi thơ xuân năm Ất Dậu 2005 của Thầy Trần Văn Khê xướng họa với chị Tôn Nữ Hỷ Khương và anh Đỗ Hồng Ngọc rơi vào mắt.
Là một nhà văn có sự nghiệp cầm bút truân chuyên và rực rỡ, sau cuốn tiểu thuyết “Chuyện ngõ nghèo”, có thể coi như cuốn tự truyện của nhà văn, Nguyễn Xuân Khánh chủ trương gác bút. Bởi ông biết mỗi người đều có giới hạn của mình, đến lúc thấy “mòn”, thấy “cùn” thì cũng là lúc nên nghỉ ngơi.
Nhà văn Ngô Minh nhớ ông và bạn văn cứ gặp nhau là đọc thơ và nói chuyện đói khổ, còn nhà thơ Anh Ngọc kể việc bị bao cấp về tư tưởng khiến nhiều người khát khao bày tỏ nỗi lòng riêng.
Tháng 4.1938, Toàn quyền Đông Dương đã “đặt hàng” học giả Nguyễn Văn Huyên thực hiện công trình Văn minh Việt Nam để dùng làm sách giáo khoa cho bộ môn văn hóa VN trong các trường trung học. Một năm sau, công trình hoàn thành nhưng lại không được người Pháp cho phép xuất bản.
TRẦN HOÀI ANH
NGUYỄN VĂN MẠNH
Kỷ niệm 140 năm ngày sinh Cụ Huỳnh Thúc Kháng
MAI VĂN HOAN
Vào một ngày cuối tháng 5/2016 nhà thơ Vĩnh Nguyên mang tặng tôi tác phẩm Truyện kể của người đánh cắp tượng Phật Thích Ca Mâu Ni vừa mới “xuất xưởng”.
Trong đời sống học thuật, nhất là khoa học xã hội, có rất nhiều thân danh dành cho số đông, công chúng (quen xem tivi, nghe đài đọc báo) nhưng cũng có những tiếng nói chỉ được biết đến ở phạm vi rất hẹp, thường là của giới chuyên môn sâu. Học giả Đoàn Văn Chúc là một trường hợp như vậy.
Dồn dập trong ba tháng Tám, Chín, Mười vừa qua, tám trong loạt mười cuốn sách của nhà nghiên cứu về Lịch sử Việt Nam thời Tây Sơn Nguyễn Duy Chính liên tiếp ra đời (hai cuốn kia đã ra không lâu trước đó). Cuộc ra sách ồ ạt này cộng thêm việc tác giả về thăm quê hương đã thu hút sự chú ý của bạn đọc và các nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
NHƯ MÂY
Chiều 14/8/2016 không gian thơ nhạc bỗng trải rộng vô cùng ở Huế. Hàng trăm độc giả mến mộ thơ Du Tử Lê và bạn bè văn nghệ sĩ từ các tỉnh Kiên Giang, Đắk Lắk, Quảng Nam, Quảng Trị, Đà Nẵng, Hà Nội đã về bên sông Hương cùng hội ngộ với nhà thơ Du Tử Lê.
NGUYỄN KHẮC PHÊ
Trích Tự truyện “Số phận không định trước”
Từ ngày “chuyển ngành” thành anh “cán bộ văn nghệ” (1974), một công việc tôi thường được tham gia là “đi thực tế”.
NGÔ MINH
Nhà văn Nhất Lâm (tên thật là Đoàn Việt Lâm) hơn tôi một giáp sống, nhưng anh với tôi là hai người bạn vong niên tri kỷ.
NGUYÊN HƯƠNG
Ở Huế, cho đến hôm nay, vẫn có thể tìm thấy những con người rất lạ. Cái lạ ở đây không phải là sự dị biệt, trái khoáy oái oăm mà là sự lạ về tư duy, tâm hồn, tư tưởng. Thiên nhiên và lịch sử đã vô cùng khoản đãi để Huế trở thành một vùng đất sản sinh ra nhiều cá nhân có tầm ảnh hưởng lan tỏa. Và trong số những tên tuổi của Huế ấy, không thể không nhắc đến cái tên Thái Kim Lan.
GIÁNG VÂN
Cầm trên tay tập thơ với bìa ngoài tràn ngập những con mắt và tựa đề “Khúc lêu hêu mùa hè”(*), một cái tựa đề như để thông báo về một cuộc rong chơi không chủ đích, và vì vậy cũng không có gì quan trọng của tác giả.
PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU - PHẠM PHÚ PHONG
Ở miền Nam trước năm 1975, những ai học đến bậc tú tài đều đã từng đọc, và cả học hoặc thậm chí là nghiền ngẫm Việt Nam văn học sử giản ước tân biên của Phạm Thế Ngũ - một trong những bộ sách giáo khoa tương đối hoàn chỉnh xuất bản ở các đô thị miền Nam, cho đến nay vẫn còn giá trị học thuật, nhất là trong thời điểm mà ngành giáo dục nước ta đang cố gắng đổi mới, trong đó có việc thay đổi sách giáo khoa.