VŨ THÀNH SƠN
Thơ Vũ Lập Nhật cho chúng ta một cảm giác mất thăng bằng, một thế đứng chông chênh nguy hiểm, như thể khi bước vào thế giới thơ của Vũ Lập Nhật là chúng ta đang bước vào một thế giới khác, một thế giới song song không biên giới; ở đó, trật tự, định luật vạn vật hấp dẫn, sự sáng suốt của lý tính như bị thách thức.
Tác giả Vũ Lập Nhật - Ảnh: internet
rằng để đi bộ bình thường
hai chân anh không được cùng lúc nằm trên một đường thẳng
thơ cũng là dao động giữa trái và phải
nhịp này nhịp kia tìm lấy nhau
mất cân bằng mới tiến về phía trước
nên khi anh dừng lại
thơ biến mất
…
thơ không thể vận hành bằng sự phô diễn
anh phải chờ nó biến mất
để rồi tìm lại đâu đó trong ký ức
về những bước chân anh đã không bước
(Một tối xem tranh của Van Gogh)
Trong lúc nhiều nhà thơ còn say sưa triết lý, hoặc than mây khóc gió trên một niềm tin vững chắc về tính tất yếu hiển nhiên của đời sống hữu hạn, Vũ Lập Nhật đem đến một thứ Thơ hoàn toàn khác; ở đó, cái chất liệu làm nên Thơ là ngôn ngữ bị đem ra xét hỏi và cũng qua đó, ngôn ngữ mới được trả lại bản chất đích thực ban đầu của nó: đó là tiếng vọng của sự im lặng.
tôi sẽ không thể cất lên bất cứ tiếng nói nào
hoặc chỉ ú ớ vài từ vô nghĩa
người ta sẽ không phán xét tôi như trong mọi cuộc phán xét về cách sử dụng ngôn ngữ
im lặng và tôi
sẽ chết theo cách của tôi
(Tôi không phải là tôi)
Rất ít những nhà thơ Việt Nam truy vấn về tính khả thể của Thơ để cho ra đời một thứ Thơ về Thơ (metapoetry) như Vũ Lập Nhật. Đó không phải là một môn thể thao nhào lộn trong phòng kính mà là một sự khai quật nguồn ánh sáng kỳ diệu đã bị tước đoạt bởi truyền hình, phim ảnh, báo chí hay facebook; sự khai quật đó có tên gọi là Homer.
như suy tư về tàn tích một thành phố không tồn tại nữa
Đó cũng chính là suy tư của Ulysses sau những tháng năm dài lưu lạc quay đầu nhìn về cố quận Ithaca và của mỗi chúng ta trong cuộc sinh tồn này.
“Hiện hữu hay không hiện hữu”, câu hỏi đó không bao giờ lỗi thời bởi vì nó phủ nhận đời sống con người như là một thứ tất định, phủ nhận quyền uy tối thượng của Tạo Hóa và khẳng định tự do không thể đảo ngược của Con Người.
tôi không phải là tôi
tôi là tóc của tôi
mỗi sáng sớm khi nhớ ra điều gì về thế giới này thì thấy mình xoăn tít trong đám đồng loại
và vài ngày sau thấy mình mắc kẹt trong những
thanh nhựa song song của một chiếc lược có khi
bụi bám đầy
thấy mình trôi
vào
nhiều ống cống cho những cuộc tái sinh
rơi
trên vô số nơi mà tôi chỉ ước gì nó không
tồn tại trên mặt đất này
(Tôi không phải là tôi)
Câu hỏi đó không những làm cho nhiều người hoảng sợ mà họ còn hoang mang, bất ổn ngay từ ngưỡng cửa của thơ Vũ Lập Nhật khi chính ngôn ngữ, hình ảnh, cảm xúc trong thơ Vũ Lập Nhật đã vượt quá cái khung an toàn của ước lệ và điển phạm.
em hỏi tôi thay vì vậy
sao tôi không viết bài thơ chào mừng lưỡi dao mới
những tờ giấy gập đôi từ nay sẽ tách rời nhau dễ dàng hơn
sao tôi không mơ một cách hợp lý
về em, về lưỡi dao, ngày kỷ niệm lao động, ngày lễ tình nhân
nhưng tôi thấy em trong ngày kỷ niệm lao động
thấy lưỡi dao trong ngày lễ tình nhân
tôi nói những điều riêng tư trong khán phòng đông người
rồi thuyết trình về vấn đề phổ quát trong phòng mình
cũng như ăn trưa cùng các nhân vật trong rạp chiếu phim
hay xem phim trong nhà bếp cùng lũ kiến bò trên thức ăn vụn còn sót lại vào buổi sáng
tôi ngủ trong công viên và chơi trò đu quay trong phòng ngủ
(Tôi đã viết một bài thơ tình)
Không có nỗi sợ nào, kể cả cái chết, kinh hoàng cho bằng nỗi sợ khi đứng trước cái xa lạ và cái không thể hiểu, bởi vì, nói như Epicure, đối với người đang sống thì cái chết chưa xuất hiện, còn đối với người đã chết thì họ không còn hiện hữu nữa để có thể cảm nhận được cái chết như thế nào. Cái chết, suy cho cùng, chẳng có liên hệ gì đến con người trong khi cái thực sự có giá trị đối với con người chính là cuộc sống ở thời hiện tại thì đang bị hoài phí.
anh không thể thưởng thức trọn vẹn ổ bánh mì
nếu không đọc hết câu chữ được in trên tờ báo làm giấy gói
anh chẳng xé nát bìa sách khi ngốn hết câu chuyện bên trong
vì anh biết vật chứa đôi khi lại đẹp hơn thứ nó chứa đựng
anh lật ngược bìa vào trong và đảo trang cuối sách ra làm bìa
cũng như đôi khi ta cần biết trước kết thúc để quyết định có sống cuộc đời này hay không
những đứa trẻ ra đời vì ai đó đã giấu đi chương tối hậu
(Nào đâu có gì khác biệt nơi đây)
Với những dòng thơ như thế này, Vũ Lập Nhật đang thực sự chiêu niệm những nỗi buồn lô xô mái ngói, mắt lúng liếng, hay nắng thủy tinh và lệ đá xanh… của một thời không xa:
Nếu tôi không ở nhà thì chắc là tôi đang ở dưới trời mưa
Nếu tôi không ở dưới trời mưa thì chắc là tôi đang trên đường đến đó
Nếu tôi không trên đường đến đó, chắc là tôi đã muốn đến một nơi nào khác
Nếu tôi không muốn đến một nơi khác, chắc là tôi vẫn mong đến nơi có mưa
Nếu tôi không mong đến nơi có mưa, chắc là tôi đang muốn hủy diệt đi sự lưu trú của mình... hủy diệt bất cứ địa hạt nào của cuộc sống chứa chấp tôi ảo não
Nếu tôi không muốn hủy diệt đi sự tồn lưu, chắc là tôi đang muốn làm biến mất đi những đường viền xung quanh nó và thử tưởng tượng có một lằn ranh giới trắng bao quanh tôi khi đứng dưới cơn mưa này.
Nếu tôi không muốn làm biến mất đi những giới hạn ấy, chắc là tôi đang muốn làm biến mất đi vỏ bọc của chính tôi và thử tưởng tượng thật ra những đường viền ấy không phải màu trắng vì nó được làm bằng da của tôi, da đang chai sần đi vì những vệt nắng cứa vào các kẽ hở nhỏ của những lỗ thoát khí.
Nếu tôi không muốn làm biến mất đi da thịt của mình như cách một con rắn gỡ bỏ lớp da để tiếp tục thanh xuân hóa đời sống, thì chắc là do tôi đã biết sẽ có ai đó thay tôi làm công việc này
Nếu tôi không biết sẽ có ai đó thay mình róc da thịt, chắc là tôi sẽ đứng dưới mưa và tiếp tục đi tìm mưa để nó xối rửa những tiểu tiết và đại sự trên cơ thể. Sẽ chẳng còn gì cả…
(Mưa)
Cái làm nên vẻ đẹp của thơ Vũ Lập Nhật chính là ở sự thách thức tính hợp lý của những biểu tượng đã được khuôn đúc và hằn dấu nung đỏ lên trí tưởng tượng của con người.
người lao công nói về điều hợp lí
khi những chiếc đũa tre trong hộp cơm trưa ai đó vứt đi được cắm vào bình hoa
tôi đốt những chiếc đũa ấy và cầu nguyện
tựa như thể đũa là danh từ mở rộng của nhang và bình hoa là danh từ thay thế của lư hương
(At right place)
Tuy vậy, vẻ đẹp đó cũng vẫn là một vẻ đẹp kết tinh trong suốt của lý tính cho dù Vũ Lập Nhật thường đào xới tính bất hợp lý trong thơ, và chính vì vậy thơ của Vũ Lập Nhật không có cái bay bổng siêu thực. Vũ Lập Nhật một chân còn bám chặt vào mảnh đất của hiện thực trong khi chân kia vẫn còn lưỡng lự trên miệng hố thẳm của vô thức, nên thơ của Vũ Lập Nhật thiếu cái say khướt nổi loạn.
như con kiến nhẫn nại
tôi bò quanh
thành cốc nước
vừa chờ đợi
vừa tiến hành cái chết của mình
bằng nghi thức bức tử sự lãng mạn
trong cái nóng khủng khiếp từ những khung cửa sổ bị tra tấn bằng nhiệt độ
mà hơi thở là đồng lõa của nỗi buồn
và khoảng giữa chỉ là khái niệm
như con cá tung mình trên mặt biển hoàng hôn
có lẽ nó không thấy đường chân trời nằm giữa đâu cả
và trong tiếng lắc cắc...
những hòn đá lạnh cuối cùng còn sót lại
tôi quyết định
nhảy
xuống
một bài thơ khác
(Những suy nghĩ trước khi kết thúc một hư cấu)
Đọc thơ Vũ Lập Nhật cho chúng ta niềm vui thú của sự khám phá những cái bất ngờ, bất định giống như một người gặp những ngã rẽ không báo trước trên con đường quen thuộc, nó vừa bất trắc nhưng vừa mời mọc kêu gọi. Những du khách đã quen ngồi sau một tay lái sẽ không có được cái cảm giác của một sự hồi hộp, lưỡng lự hay liều lĩnh đó bởi khi đó, đọc một bài thơ, chẳng khác gì làm một bài trắc nghiệm trí nhớ của học sinh thi tốt nghiệp; họ sẽ bỏ trống ô vuông bên cạnh đối với những cái lạ lẫm chưa từng được dạy dỗ bao giờ. Vũ Lập Nhật đem vào trong thơ một chiều kích khác của ngôn ngữ, đó là một sự triển khai hình ảnh trong trường ngôn ngữ (Jacques Lacan), là sự mơ hồ cấu thành của thông điệp thi ca (R. Jakobson), là thứ ngôn ngữ biểu tượng của Roland Barthes.
Khi sự im lặng của tôi hút hết dưỡng khí để trưởng thành
bầy cá nhỏ vẫn lặng lẽ bơi qua sự im lặng đã từng chứa những bầy cá nhỏ khác
sự im lặng của tôi có những cánh tay dài sọc
như nét gạch ngang trong bức tranh đứa trẻ vẽ tượng trưng cho biển
_ ___ __ ___ ____ _ _ ___ __
____ __ ____ _ _ _ _____ __
__ ___ __ ____ ___ ___ _ _
rồi chúng thành đường thẳng duy nhất
mà bất cứ con cá nào bơi qua cũng biến mất
Khi sự im lặng của tôi hấp hối
chúng mới hiểu rằng
từ lâu mình đã bị gọi sai tên.
(Bầy cá nhỏ bơi qua sự im lặng)
Và chúng ta hy vọng, như Vũ Lập Nhật hy vọng, rằng:
thơ không thể vận hành bằng sự phô diễn
anh phải chờ nó biến mất
để rồi tìm lại đâu đó trong ký ức
về những bước chân anh đã không bước
(Một tối xem tranh Van Gogh)
Những bài thơ mà Vũ Lập Nhật không viết hoa.
V.T.S
(SHSDB32/03-2019)
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.