Đọc thơ Hồng Thị Vinh

15:30 28/10/2008
QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

Tôi đã đọc nhiều lần tập thơ Đời vạn dặm của tác giả Hồng Thị Vinh. Tập thơ có nhiều thể loại. Loại nào cũng gây nhiều hứng thú và suy tư.Có lần tôi phải thốt lên: đọc thơ Hồng Vinh cần có nhiều suy tư và nghiền ngẫm. Hình như thơ Hồng Vinh khiến người đọc phải nhớ lại nhiều bài thơ vào những thời khá xa xưa, đến phong trào thơ lãng mạn, siêu thực khoảng đầu thế kỷ hai mươi.
Nhưng ấn tượng nhất đối với tôi là trang thơ mang đậm hơi hướng Thiền môn.
Một bài thơ đầu:
Bừng đón xuân
Rừng hoa dại
Đôi bướm vàng.
Đây là một cảnh xuân của thiên nhiên nguyên thuỷ. Tác giả không tham dự mà chỉ nhìn ngắm thưởng thức để rồi hoà đồng vào với thiên nhiên.
Núi rừng trùng điệp
Chiếc gậy trúc
Vị sư già.

Đây là cảnh không đơn côi của con người trước núi rừng trùng điệp. Vị sư già không lạc lối với chiếc gậy trúc trong tay. Cuộc đời và niềm tin tràn đầy trong ý thơ. Hình bóng vị sư già với cây gậy trong bài thơ khiến người đọc nhớ đến bài thơ của nhà thiền sư Basho Nhật Bản:
Cánh bướm thiu thiu
Trên đầu gậy
Nhà sư
Đi hành hương.
Trong bài thơ cái tĩnh tràn đầy trong cái động.
Cũng một nhà thơ Nhật đã viết một bài thơ diễn tả mùa hoa anh đào nở chỉ với một từ duy nhất.
Đi
Suy ngẫm trong một thời gian khá lâu tôi mới cảm nhận được cái thú vị của bài thơ. Tôi nghĩ rằng cần phải sống nơi xứ hoa anh đào nhiều mùa hoa nở thì mới cảm nhận được đầy đủ ý nghĩa của từ “Đi”.
Hoa anh đào nở là động lực lớn lao đã đánh thức tâm hồn và khêu dậy thể xác con người bừng sống dậy sau một mùa đông giá lạnh để cùng với hoa anh đào đón mùa xuân mới. Tình hoa và lòng người cùng hoà nhịp với đất trời đón xuân. Người người cùng đi, nhà nhà cùng đi, nơi nơi cùng đi. Đi để ngắm, để thưởng thức, để chiêm ngưỡng màu hoa trinh nguyên như ngọc như ngà, nhìn cánh hoa phơi phới như những vần thơ trác tuyệt, như những cung nhạc vô âm rung động giữa đất trời. Cùng nhau đi xem lễ hội anh đào để nhìn người và được người nhìn, để ngắm hoa và hội nhập vào hoa. Mùa hoa đào trở nên linh thiêng, huyền nhiệm. Và “Đi” là sự hành hương cần thiết.
Hai bài thơ sau của Hồng Vinh:
Hồn trần bụi tục
Nương theo
Gió thoảng ngoài

Là hạt cát
Bay vòng
Vô lượng kiếp

Là:
một nhân sinh quan thấm nhuần hương vị Phật. Bài thơ khiến người đọc nhớ đến những bài thơ của nhà thơ Thao Thao in năm 1943 trong tập thơ “Trăng nước” do nhà xuất bản Tri Tân xuất bản tại Hà Nội:
Bể mịt mùng
cát vàng nhạt
trăng soi
để nói đến cái mênh mông cô quạnh của cõi đời này.
Chuối bâng khuâng   
ngắm bèo ngủ
chân cầu.
Có sự liên tưởng đến thơ của các nhà thơ khác khi đọc thơ Hồng Vinh vì thơ Hồng Vinh gợi nhiều suy tư và gây nhiều cảm xúc.
Đầu xuân đọc được vài câu thơ đẹp và ý vị của Hồng Vinh lòng khoan khoái hơn là ngồi ngắm một chùm hoa lan cắt tỉa đẹp đẽ song lại là hoa giấy.
Xin cảm ơn tác giả.
                                      Q.G

(nguồn: TCSH số 218 - 04 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.

  • NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.

  • LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)

  • LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)

  • NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.

  • LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.

  • KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.

  • NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.

  • HỒNG NHU    (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.

  • NGUYỄN HỮU QUÝ         (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.

  • LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.

  • MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.

  • SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.

  • CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...

  • NGUYỄN VĂN HOA1. Tôi là người Kinh Bắc, nên khi cầm cuốn sách Văn chương cảm và luận (*) của Nguyễn Trọng Tạo là liền nhớ ngay tới bài hát Làng quan họ quê tôi của anh mà lời ca phỏng theo bài thơ Làng quan họ của nhà thơ Nguyễn Phan Hách.

  • TRẦN HUYỀN SÂMSau mười năm, kể từ khi “Cái trống thiếc” ngỗ ngược của chú lùn Oska vang lên trên đống gạch đổ nát của thế chiến II, Herta Munller đã tiếp nối Gunter Gras và vinh danh cho dân tộc Đức bởi giải Nobel 2009.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH       (nhân Đọc "Từ những bờ hoa gió thổi về")Ông Trần Nhật Thu sinh năm 1944 ở Quảng Bình. Ông  lớn lên, làm thơ, đoạt giải thi ca cũng từ miền đất gió cát này. Năm 1978 ông rời Quảng Bình như một kẻ chạy trốn quê hương. Nhưng hơn hai chục năm nay miền quê xứ cát vẫn âm thầm đeo bám thơ ông. Qua đó lộ cảm tâm trạng ông vẫn đau đáu miền gió cát này.

  • Nhà văn Tô Nhuận Vỹ tên thật là Tô Thế Quảng, sinh ngày 25 tháng 8 năm 1941, quê ở Vinh Xuân, Phú Vang, Thừa Thiên Huế. Anh đã kinh qua các công việc: dạy học, phóng viên, biên tập viên… Anh từng giữ các chức vụ: Tổng thư ký và Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Tổng biên tập tạp chí Sông Hương, Giám đốc Sở Ngoại vụ, đại biểu HĐND tỉnh Thừa Thiên Huế, Uỷ viên Ban kiểm tra, Uỷ viên Hội đồng văn xuôi và Ban đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam.

  • ĐÔNG LAThế là sự ồn ào qua rồi. Diễn đàn đã đóng cửa. Nhưng lẽ nào việc thẩm định văn chương chỉ râm ran một hồi như thế, rồi cái nhùng nhằng còn nguyên nhùng nhằng, sự mâu thuẫn còn nguyên mâu thuẫn, và chuyện hay dở đến đâu cũng vẫn cứ mãi lửng lơ!