Ảnh: thuvien-ebook.com
Ngoài ra nó còn được dịch ra nhiều thứ tiếng như: Anh, Pháp, Đức, Nga, Hàn Quốc; và cuối năm 1999 Nhà xuất bản Đà Nẵng đã cho công bố bản dịch của Vũ Công Hoan ra tiếng Việt, dày hơn 1300 trang, hai tập. Tuy nhiên số lượng bản in và số thứ tiếng đã được dịch chưa thể nói gì nhiều về tác phẩm và tác giả của nó. Nhưng điều đó đã gợi cho tôi một suy nghĩ rằng tại sao Phế đô lại được một lượng lớn công chúng trên khắp thế giới đón đọc như vậy? Ở cái đất nước có số dân gần bằng 1/4 dân số thế giới với một truyền thống văn hóa đặc sắc và lâu đời, là một trong những cái nôi sớm nhất của văn minh nhân loại, và cũng là một đất nước được coi là trì trệ nhất về kinh tế cho đến những năm cuối của thập kỷ 70. Đấy là một hệ vấn đề kép với đầy những nghịch lý mà không phải ai cũng có được một cái nhìn thật sự khách quan và đầy đủ về nó. Thế nhưng chỉ từ khi mở cửa thì bức màn bí hiểm nơi đây mới được vén lên. Và có biết bao sự thật ở bên trong dần được sáng tỏ. Giả Bình Ao qua tác phẩm Phế đô của mình đã đem đến cho bạn đọc gần xa cái nhìn khái quát về một phần sự thật ấy. Phải chăng đấy là một trong những nguyên nhân khiến cho Phế đô trở thành tâm điểm của các cuộc tranh luận văn chương ở Trung Quốc kéo dài gần 10 năm nay và nó đã vượt ra ngoài biên giới quốc gia nơi sản sinh ra tác giả và tác phẩm. Cốt truyện của Phế đô rất đơn giản, chỉ xoay quanh vụ kiện của người tình cũ, Cảnh Tuyết Ấm với nhà văn nổi tiếng Trang Chi Điệp, nhân vật trung tâm của tác phẩm; Tổng biên tập tạp chí Tây Kinh, Chung Duy Hiền và một cán bộ tập sự biên tập, Chu Mẫn. Tuy nhiên qua đấy hàng loạt các mối quan hệ cá nhân và xã hội; gia đình và bằng hữu, kinh tế và văn hóa, tâm lý và tình cảm... của Trang Chi Điệp và các văn sĩ, trí thức, cũng như hiện thực đời sống xã hội đương đại Trung Quốc đã được đưa ra và lý giải một cách thấu đáo và đầy thuyết phục. Trang Chi Điệp như một cái đinh đóng chặt vào mảnh đất Tây Kinh này. Và các nhân vật trong Phế đô đều được treo lơ lửng đâu đấy quanh cái móc của danh nhân Trang Chi Điệp. Mặc dù Giả Bình Ao chưa một lần nói đến nguồn gốc xuất thân, quá trình lao tâm khổ tứ, cùng những tác phẩm, công trình làm nên cái danh của Trang Chi Điệp, mà chỉ đề cập đến ảnh hưởng, uy tín và hậu quả của cái danh ấy. Thế nhưng thực sự cái danh của ông ta đã làm thay đổi từ hành vi ứng xử đến lối sống đạo đức và quan niệm nhân sinh cùng những hoạt động kinh tế xã hội của mọi cá nhân trong cái thành phố Tây Kinh thời mở cửa. Danh tiếng của Trang Chi Điệp đã làm biến đổi quan hệ giữa người và người. Nhưng đáng sợ là cái danh ấy đã có thể biến thuốc trừ sâu giả thành thuốc trừ sâu thật. Quả thực chỉ có ở các nước phương Đông nói chung và Trung Quốc nói riêng thì cái danh mới thật sự có giá và tác yêu tác quái đến như vậy. Liễu Nguyệt, một cô gái thôn quê, mới học hết trung học phổ thông, tuổi đời còn hơ hớ, thật thà nết na là thế, sau khi được Triệu Kinh Ngũ đưa đến làm người giúp việc cho gia đình danh nhân Trang Chi Điệp đã nhanh chóng trở thành một đối tượng, một người tình, và là kẻ làm nền cho ông chủ. Khởi đầu Liễu Nguyệt cũng như bao cô gái quê mùa khác đã nhanh chóng bị choáng ngợp bởi những hào quang mới nơi chốn kinh thành đang hàng ngày hàng giờ thay da đổi thịt về kinh tế xã hội và cả về lối sống. Tiếp đến là sau những công việc nội trợ thường nhật là những cuộc tình vụng trộm, nhưng không kém phần đắm đuối, giữa một bên là danh nhân nổi tiếng Trang Chi Điệp, người luôn thích tìm cảm hứng mới lạ cho sự nghiệp sáng tác văn chương của mình và một bên là cô hầu gái quê mùa xinh đẹp, đang tuổi dậy thì, lắm tham vọng về ái tình và danh tiếng. Và thế là Liễu Nguyệt đã biết đem cái trinh đáng giá nghìn vàng của người con gái để đổi lấy việc đưa một bàn chân còn dính đầy bùn đất đồng quê nhúng vào trong cái xã hội phồn hoa, thật giả trắng đen lẫn lộn, nhưng vẫn là niềm mơ ước của bao người như cô. Thế là trong mắt hai con hổ đói ấy, họ nhanh chóng trở thành miếng mồi đầy ý vị của nhau, cả hai bên đều muốn nuốt chửng đối thủ của mình, nhưng đều lại không nuốt hết. Đấy chính là một nghịch lý mang tính tất yếu của những con người sống trong buổi giao thời, mọi cái đều chưa định vị. Để che mắt thiên hạ về những cuộc ái ân đắm đuối và vụng trộm kia, Trang Chi Điệp đã không bỏ qua cơ hội choàng lên cuộc đời Liễu Nguyệt một chiếc áo đạo đức sặc sỡ sắc màu, bằng cách định đem Liễu Nguyệt gả bán cho Triệu Kinh Ngũ, một người thông minh đẹp trai, vừa có công đưa Liễu Nguyệt đến giúp việc cho gia đình nhà họ Trang, lại vừa là thuộc hạ của danh nhân để chứng tỏ mình là người luôn quan tâm đến người khác. Nhưng xem ra không ổn vì như thế mũi tên Liễu Nguyệt bắn ra chỉ đến được một đích. Trước một cô gái vừa xinh đẹp trẻ trung, hừng hực sức xuân và thông minh như Liễu Nguyệt, với nhạy cảm vốn có của mình, Trang Chi Điệp không thể để uổng phí một cơ hội như vậy. Cuối cùng danh nhân đã lén lút gả bán cô cho Đại Chính, con trai chủ tịch thành phố, một anh chàng bị thọt một chân, nhưng lắm tiền nhiều bạc lại có địa vị xã hội khá chắc chắn. Tuy nhiên cái mà Liễu Nguyệt cần chưa hẳn là tiền của, càng không phải là chồng con, mà trước hết là một người thành phố có hộ khẩu và địa vị hẳn hoi không phải chui lủi như kiếp con sen đứa ở. Còn Trang Chi Điệp lại cần phải bằng mọi cách vừa muốn đẩy cô ra khỏi nhà mình như là cách tốt nhất để rút kíp một quả bom nổ chậm, bịt đi những cuộc tình vụng trộm trước đây không chỉ với Liễu Nguyệt mà cả với Đường Uyển Nhi nữa; lại vừa muốn coi đây là cơ hội ngàn vàng để nhờ chủ tịch thành phố can thiệp vào vụ kiện có liên quan đến ông ta, làm tổn thương đến danh dự cá nhân của một danh nhân. Còn vợ của chủ tịch lại cần tìm một người thừa kế và có thể giữ được thanh danh của gia đình và của chồng trong cương vị là người đứng đầu thành phố Tây Kinh, thay vì thằng con trai độc nhất bị dị tật ở chân đi cà nhắc. Vậy là cả ba bên bốn bề đều đã đạt được ý nguyện của mình. Danh nhân Trang Chi Điệp đã tháo được ngòi một quả bom nổ chậm trong nhà không một ai biết, ngay cả bản thân Liễu Nguyệt, Triệu Kinh Ngũ và Ngưu Nguyệt Thanh cũng không thể nào ngờ tới. Cũng nhờ đó danh tiếng của Trang Chi Điệp ngày càng được củng cố và đã trở thành ân nhân của gia đình ông chủ tịch thành phố. Liễu Nguyệt trong nháy mắt đã trở thành con chuột sa vào một cái chĩnh gạo sang trọng nhất chốn kinh kỳ. Nàng đã có trong tay một người giúp việc, để rồi không bao lâu nữa cô trở thành người mẫu thời trang của ông chủ đoàn ca múa nhạc thành phố Nguyễn Tri Phi. Và cuối cùng gia đình ông chủ tịch cũng đã tìm được cho đứa con trai xấu số của mình một người vợ là người mẫu thời trang. Kể ra như vậy cũng thật mát mặt không chỉ gia đình ông, mà còn cho cả thành phố Tây Kinh, vốn là thủ đô văn hiến một thời nay đang mở cửa để khôi phục lại kinh tế và văn hóa, những cái dường như đã bị lịch sử lãng quên. Mọi việc xem như thế là đã xuôi chèo mát mái. Điều ấy quả thực chỉ có tài năng của Giả Bình Ao mới có thể làm được. Đó là một thành công của tác phẩm. Qua nhân vật Liễu Nguyệt, tôi chợt liên tưởng đến hàng trăm nghìn cô gái nông dân Việt Nam đang làm Ôsin cho các gia đình khá giả hoặc là phục vụ tại các nhà hàng khách sạn ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng.. . chắc gì số phận đã khá hơn? Ngưu Nguyệt Thanh, người vợ bất hạnh suốt đời chỉ lo giữ thanh danh cho chồng, thì vô tình bị biến thành kẻ giúp việc đắc lực và thành công nhất trong gia đình của danh nhân Trang Chi Điệp. Ngưu Nguyệt Thanh thực chất chỉ là người theo sau giải quyết các hậu quả của cái danh do chồng mình để lại, từ những công việc nội trợ như cơm nước, giặt giũ, chợ búa... đến những quan hệ chính trị xã hội, và đặc biệt là nhu cầu tình dục. Trong khi quan hệ với cô vợ già Nguyệt Thanh bao giờ Trang Chi Điệp cũng chỉ là một ông chồng bất lực. Còn trong thực tế với Đường Uyển Nhi, Liễu Nguyệt hay A Xán, thì danh nhân Trang Chi Điệp lại luôn tỏ ra là một Từ Hải, đánh hơn trăm trận sức dư muôn người (Nguyễn Du). Cũng vì những lẽ trên mà Ngưu Nguyệt Thanh đã không ít hơn một lần nói với mọi người rằng nếu kiếp sau có được làm người thì cũng không bao giờ làm vợ nhà văn nữa. Nói vậy thôi chứ Chúa chỉ ban cho mỗi người một số phận làm sao có thể cưỡng lại được, một khi cái danh văn sĩ của Trang Chi Điệp lớn đến như vậy. Vả lại cứ xem cái cách lo toan, dàn xếp và chạy vạy vụ kiện cho chồng thì biết Ngưu Nguyệt Thanh là người ý thức rõ hơn ai hết vị thế và giá trị cái danh của chồng bà, mà cả thành phố Tây Kinh này hầu dễ mấy ai có được như vậy, nếu không muốn nói là tất thảy mọi người đều cúi mình xin chịu một lạy trước cái danh ấy.
Còn Đường Uyển Nhi, cô gái đã có chồng ở huyện ly Đồng Quan, cũng bỏ nhà đi theo nhà văn trẻ Chu Mẫn tới thành phố với tham vọng trở thành một người Tây Kinh xịn. Nhưng anh chàng tập sự biên tập Chu Mẫn làm sao có đủ khả năng giúp được cô. Cái danh tiếng lẫy lừng của Trang Chi Điệp đã trở thành tâm bão hút cả người vợ hờ của học trò về phía mình, để rồi trong khoảnh khắc người đàn bà xinh đẹp, giàu nữ tính và đầy tham vọng kia bị những cơn cuồng phong của ái tình nghiến nát. Trong mắt danh nhân, Uyển Nhi mới thực là người trả lại cho mình bản tính đàn ông như là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo trong ông. Ngược lại Uyển Nhi cũng không bỏ qua cơ hội tìm mọi cách bám vào sự khao khát ái tình được che đậy trong cái vỏ bọc danh nhân, văn sĩ của Trang Chi Điệp. Nhưng điều quan trọng là cô gái nửa quê nửa tỉnh này luôn biết cách làm thỏa mãn những cơn khát ái tình của danh nhân. Chính Đường Uyển Nhi chứ không phải ai khác đã dũng cảm nói lên một chân lý rất giản đơn là không có người đàn ông nào bất lực mà chỉ có những người đàn bà không biết cách. Và cô cũng đã có lần nói với Trang Chi Điệp rằng Uyển Nhi mới là người có đủ tài nghệ và khả năng làm thỏa mãn được danh nhân, chứ không phải là Ngưu Nguyệt Thanh. Còn Trang Chi Điệp tuy không nói nhiều nhưng lại hoàn toàn có thể cảm nhận ở chiều sâu nhân bản trong những cuộc tình mây mưa với cô gái trẻ mà dường như trời đã phú sẵn cho nàng khả năng làm tình đạt đến mức điệu nghệ. Có lần Uyển Nhi đã nhờ cánh chim bồ câu đưa thư mang đến cho người tình một mảnh giấy có hình đôi môi son, một ít máu và cả một cái lông.. . người nữa. Điều đó càng khiến cho danh nhân không thể buông tha được nàng. Và cũng từ đó quan hệ của Uyển Nhi với Chu Mẫn chỉ còn là một mối tình hờ hững, theo kiểu hợp đồng lấy lệ hệt như quan hệ vợ chồng giữa Ngưu Nguyệt Thanh và Trang Chi Điệp. Mặc dù Chu Mẫn biết Uyển Nhi và Thầy Điệp của mình có những biểu hiện về quan hệ tình ái, nhưng là phận bầy tôi, học trò làm sao có thể nói ra điều ấy được. Vả cái anh chàng tập sự biên tập Chu Mẫn vì muốn nổi tiếng và để khẳng định mình mà đã một lần trót dại cho đăng bài báo về quan hệ trước đây giữa danh nhân Trang Chi Điệp và Cảnh Tuyết Ấm đang làm rối tung cả thành phố Tây Kinh lên. Tất cả tâm trí lực của anh ta phải tập trung cho việc giải quyết vụ kiện, thì hỏi còn đâu thời gian và công sức mà để ý đến Uyển Nhi. Cũng lấy danh nghĩa vì vụ việc Chu Mẫn gây ra mà Uyển Nhi và Trang Chi Điệp thỏa sức tung hoành ở Nhà Cầu Nguyệt. Giá như cái cô bé nhà quê tinh quái và đầy ghen tuông Liễu Nguyệt kia không túm được con chim bồ câu mang theo lá thư của Uyển Nhi gửi cho Chi Điệp lần cuối thì chắc rằng mọi chuyện êm thấm cả hay chí ít cũng chuyển theo một hướng khác. Nhưng cuộc đời làm sao lại có thể giá mà được. Sự hấp dẫn của Phế đô chính là ở chỗ cái tưởng như có thể không xảy ra thì nó lại cứ phải xảy ra theo đúng cái logic vốn có của nó. Ngay đến cả gia đình chủ tịch thành phố danh tiếng và tiền của như trời biển ấy vẫn cần đến danh tiếng của Trang Chi Điệp, thì làm sao trách được gì khi A Xán, một cô gái ở tận nơi sơn thâm cùng cốc sẵn sàng hiến thân cho Trang Chi Điệp cốt để được thơm lây cái danh của người quân tử. Rồi cho đến cả Hạ Tiệp, chị Lưu bán sữa bò, tổng biên tập tạp chí Tây Kinh Chung Duy Hiền, bậc thầy về tướng số Mạnh Vân Phòng, nhà thư pháp nổi tiếng Cung Tịnh Nguyên, họa sỹ chuyên sao chép tranh Uông Hy Miên, trưởng đoàn ca múa nhạc Nguyễn Tri Phi, giám đốc xí nghiệp thuốc trừ sâu giả Hoàng Đức Phúc, nhân viên phụ trách cửa hàng sách Triệu Kinh Ngũ và Hồng Giang.. . tất cả đều quay cuồng trong cái dòng xoáy bất tận và tai quái của cái danh ấy. Qua Phế đô người đọc có thể thấy ở chốn kinh kỳ xưa, một thời đã là kinh đô hưng thịnh, là trung tâm kinh tế và văn hóa của Trung Hoa trung đại, mặc dù đã bị lãng quên một thời gian dài và cho đến khi nền kinh tế thị trường ùa vào, làm thay đổi đời sống kinh tế và xã hội của mọi thứ dân nơi đây, nhưng dường như chưa hề làm biến đổi được cái máu háo danh của quân tử Tàu từ thời cổ đại. Trong Phế đô chưa thấy ai chết vì lợi mà chỉ chết vì danh. Ngưu Nguyệt Thanh chiều chuộng và hầu hạ chồng gần hết cả đời, cuối cùng cũng phải bỏ nhà về quê ngoại vì không muốn nhìn thấy cảnh chồng mình và Uyển Nhi thậm thụt với nhau làm mất thể diện, thanh danh của gia đình đã một thời nổi tiếng là văn nhân. Cảnh Tuyết Ấm theo kiện Chu Mẫn và Trang Chi Điệp đến cùng vì cái danh của bà hiện tại không muốn bị ai bôi nhọ dù cho mối tình ấy trước đây có thật. Tổng biên tập Chung Duy Hiền vì cuốn sổ đỏ xác nhận cái danh văn sĩ của mình mà bất đắc kỳ tử. Nhà thư pháp Cung Tịnh Nguyên sợ rằng hơn một nửa số tranh chữ ông vẽ và sưu tập trong suốt bao năm trời bị thằng con trai lấy cắp đem bán cho kẻ vô danh tiểu tốt nào đấy, để lấy tiền hút thuốc phiện. Cuối cùng cũng lăn đùng ra mà chết. Vợ của giám đốc Hoàng chết vì bà không phân biệt được đâu là thuốc sâu thật, đâu là thuốc sâu giả, cũng bởi tại một bài báo của Trang Chi Điệp ca ngợi thuốc sâu của xí nghiệp do chồng bà làm giám đốc, chứ thực ra bà không có ý định tự tử thật. Nồi lẩu được Ngưu Nguyệt Thanh nấu bằng chính con chim bồ câu đưa thư của Trang Chi Điệp mua tặng người tình Đường Uyển Nhi dọn ra thết đãi họ là đỉnh điểm của một cách trả thù vì danh rất thâm thúy và cay độc theo kiểu Trung Quốc nói riêng và phương Đông nói chung, tương tự như mẹ Cám đã đem mắm cô Tấm ra thết đãi Hoàng tử trong truyện Tấm Cám của Việt Nam. Cùng với cái chết của Chung Duy Hiền, bức thư của Uyển Nhi gửi cho Trang Chi Điệp qua con chim bồ câu mà Liễu Nguyệt đọc được, hành động lấy que sắt nung đỏ dí vào âm hộ Đường Uyển Nhi của người chồng cũ ở Đồng Quan... thì nồi lẩu cũng là một trong những chi tiết đắt nhất của Phế đô. Bởi vì những cái đó chỉ có ở Trung Quốc và một số nước phương Đông người ta mới làm như vậy. Liễu Nguyệt, Uyển Nhi, A Xán nhảy vào các cuộc tình, hiến mình cho Trang Chi Điệp, đến nỗi cuối cùng A Xán thì trốn chạy, Liễu Nguyệt thì làm vợ của một anh thọt, còn Uyển Nhi bị người chồng cũ trói lại bắt về Đồng Quan đánh cho nát người và bị ngược đãi về tình dục.. ., xét cho cùng cũng đều vì cái danh. Và chính Trang Chi Điệp, kẻ có danh nhất ở thành phố Tây Kinh này kết thúc đời mình bằng cái chết ở nhà ga cũng chỉ vì cái danh của tôi lớn đến mức nó đã ăn thịt hết tất thảy mọi người ở thành phố này và cuối cùng nó quay ra ăn thịt chính bản thân người mang nó, như chính Trang Chi Điệp đã từng thú nhận như vậy ở cuối sách. Tất cả những chi tiết đó là biểu hiện của một kết cục tất yếu tấn bi kịch của tầng lớp trí thức Trung Quốc đương đại. Đó cũng chính là ý nghĩa xã hội rộng lớn và sâu sắc mà Phế đô đã đạt được. Cái mới của Phế đô là một bộ tiểu thuyết không bố cục theo chương hồi, không có tuyến nhân vật phản diện, cũng không có những trang anh hùng hảo hán như tiểu thuyết truyền thống của Trung Quốc, mà tất cả đều là quân ta, với những quan hệ và diến biến của đời sống tâm lý cá nhân tinh tế và phức tạp. Mặt khác khi miêu tả đến những đoạn về quan hệ tình dục, tác giả chỉ đưa ra những chi tiết có tính chất khơi mào tạo đà cho trí tưởng tượng bay bổng của công chúng bạn đọc mà không sa đà quá mức vào việc miêu tả tỉ mỉ những hoạt động ấy. Việc tự tay tác giả cắt đi và đánh những dấu sao để giữ giới hạn cần thiết đối với những ai kỳ thị bảo thủ, thích soi mói vào những điều mà trình độ dân trí của người Trung Quốc cũng như một số nước khác chưa thể chấp nhận được là việc làm cần thiết, vừa tránh được búa rìu dư luận, lại vừa có thêm cơ hội để tác phẩm có thể hòa nhập sâu rộng hơn đối với đông đảo công chúng. Đấy chính là một biệt tài của Giả Bình Ao. Có lẽ vì thế mà nhiều người đã so sánh và định giá Phế đô ngang hàng với Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai, là Hồng Lâu Mộng và Kim Bình Mai hiện đại. Còn trong lĩnh vực miêu tả và khắc họa về trí thức thì Phế đô là tác phẩm hay sau cuốn Vây thành? Một thành công nữa của Phế đô là các sự kiện và nhân vật luôn xâu chuỗi và gắn quện với nhau thành một khối thống nhất và hết sức chặt chẽ, tạo nên sự cuốn hút đối với người đọc. Mỗi nhân vật, tính cách đều có số phận rất riêng không ai giống ai. Đằng sau những câu chuyện của mấy ông trí thức nhà văn, Giả Bình Ao đã đặt ra và lý giải rất thấu đáo và tài tình một vấn đề thật sự nghiêm túc không chỉ về khía cạnh lối sống cá nhân của giới trí thức Trung Quốc đương đại, mà còn cả về khía cạnh nhân sinh và xã hội. Đó là vấn đề thành danh và thành công. Không phải bất cứ ai, ở đâu và lúc nào người ta thành danh là đã thành công và trong thực tế cuộc sống nhiều khi lại hoàn toàn trái ngược. Kẻ nào đùa giỡn với cái danh của mình hoặc là dùng cái danh để mưu lợi một cách quá đáng thì trước sau ắt phải trả giá là lẽ đương nhiên. Nhưng những kẻ cố tình lợi dụng danh tiếng hoặc mạo danh người khác cũng không thể nào trốn khỏi sự trừng phạt của số phận. Và quan trọng hơn là nhiều khi vì cái danh mà người ta có thể đánh mất mình và làm đảo lộn cả một trật tự xã hội vốn rất nền nếp và quy củ như Trung Quốc. Với một bút pháp giản dị đến lạnh lùng, nhưng rất tinh tế, Giả Bình Ao đã đem đến cho chúng ta những trận cười đầy nước mắt, cùng những suy ngẫm về thế thái nhân tình. Nhưng phía sau đó là một quá trình lao động nghệ thuật bền bỉ, công phu và thật sự nghiêm túc của Giả Bình Ao. Tất cả những điều vừa trình bày trên đây đã làm nên những nguyên nhân chính khiến cho Phế đô gây được tiếng vang không chỉ ở Trung Quốc mà nhiều nước trên thế giới. Phế đô thật sự là tiếng chuông cảnh báo đối với những ai đang cố tình nhắm mắt chạy theo cái danh mà Giả Bình Ao muốn gửi đến tất cả chúng ta qua tác phẩm của mình. Xuân Canh Thìn 2000 Đ.N.Y (136/06-00) |
NGUYỄN TRỌNG TẠOCó người làm thơ dễ dàng như suối nguồn tuôn chảy không bao giờ vơi cạn. Có người làm thơ khó khăn như đàn bà vượt cạn trong cơn đau sinh nở. Có người không đầy cảm xúc cũng làm được ra thơ. Có người cảm xúc dâng tràn mà trước thơ ngồi cắn bút. Thơ hay, thơ dở, thơ dở dở ương ương tràn ngập chợ thơ như trên trời dưới đất chỉ có thơ. Thơ nhiều đến ngạt thở chứ thơ chẳng còn tự nhiên như hơi thở mà ta vẫn hoài vọng một thời.
THẠCH QUỲSuốt đời cần mẫn với công việc, luôn mang tấm lòng canh cánh với thơ, vì thế, ngoài tập “Giọng Nghệ” in riêng và bao lần in chung, nay Ngô Đức Tiến lại cho ra tập thơ này.
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)