Liên tiếp hai năm qua, Ma Văn Kháng trình làng 2 cuốn tiểu thuyết mới và mới đây một NXB cùng lúc phát hành 8 cuốn cả tiểu thuyết và truyện ngắn của cây bút có sức viết bền bỉ hàng hiếm ở Việt Nam. Nhưng Ma Văn Kháng liệu có còn phù hợp với đọc giả trẻ hôm nay, theo nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên vẫn là “câu hỏi khó”. Còn nhà văn Nguyễn Khánh Tình nói “đọc Ma Văn Kháng, tâm hồn tôi dịu đi”.
Nhà văn Ma Văn Kháng giao lưu với bạn đọc trẻ. Ảnh: Đinh Tị.
Trước đó, trên đường đưa GS Phong Lê tới dự buổi ra mắt sách của nhà văn Ma Văn Kháng, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã giải đáp thắc mắc của GS Phong Lê: “Sách liệu có bán được không?” rằng: “Những giá trị ẩn ngầm thì thường bán chậm. Nhưng nhiều nhà xuất bản, nhà sách vẫn chọn cách làm kinh doanh không quên văn hóa và biết dùng văn hóa để kinh doanh”.
Hỏi nhà văn Ma Văn Kháng liệu ông có tin mình sẽ viết được những câu chuyện về hôm nay? Nhà văn khiêm tốn trả lời ông thuộc về thời đại của ông thôi.
Chekhov của Việt Nam
Với 23 tiểu thuyết và vài trăm truyện ngắn trong đời văn, đặc biệt là từ sau 1982 đến nay, PGS.TS La Khắc Hòa đánh giá rất cao sức viết và tầm vóc của Ma Văn Kháng trong văn học Việt Nam. Ông thậm chí gọi Ma Văn Kháng là “Chekhov của Việt Nam”.
PGS.TS La Khắc Hòa cho rằng đa số nhà văn sáng tác ra truyện, nhưng các nhà văn lớn tạo siêu truyện. Siêu truyện là những chuyện có khả năng đẻ ra truyện. Và theo Ma Văn Kháng là một trong số ít nhà văn Việt Nam có siêu truyện. Và siêu truyện của Ma Văn Kháng chính là chuyện Một mình một ngựa ra đời năm 1982.
Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá “chất” Chekhov của Ma Văn Kháng ở tính triết lý và tầm tư tưởng. Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhận định Ma Văn Kháng không phải là nhà văn hàng đầu Việt Nam nhưng là con chim đầu đàn của văn học kháng chiến chống Mỹ, “nổi tiếng, tài năng, đáng trọng nhất cho thế hệ các nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước”.
Theo Hữu Thỉnh, Ma Văn Kháng không chỉ là nhà văn thành danh, nổi tiếng mà đồng thời còn là một nhà tư tưởng, nhà văn hóa, một nhà hoạt động xã hội. Ma Văn Kháng hội tụ bốn yếu tố đó một cách hoàn hảo. Ông nhắc lại tuyên bố của Ma Văn Kháng chống sự “không tải” trong văn học: Đọc tác phẩm mà không thấy tư tưởng, triết lý nhân sinh nào, không nâng lên tầm triết lý thì chỉ là xe không tải.
Nhà thơ Hữu Thỉnh cho rằng Ma Văn Kháng đã làm tốt việc truyền tải tư tưởng, triết lý trong các sáng tác của ông. Đó là những sáng tác tiếp cận nhiều kiếp người, nhiều mảng đề tài, nhiều số phận và làm giàu cho tiếng Việt, “đưa tiếng Việt lên một tầm cao mới”. Hữu Thỉnh khẳng định, sau Tô Hoài, người có sáng tác đồ sộ phải kể đến Ma Văn Kháng.
Không chịu làm quan văn
Tại buổi giao lưu ra mắt sách của nhà văn Ma Văn Kháng, nhà văn Hữu Thỉnh lần đầu tiên tiết lộ về kỳ Đại hội Hội Nhà văn kịch tính nhất. Đó là lần thứ 4 năm 1989, cũng là năm tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú của Ma Văn Kháng ra đời. Cuốn tiểu thuyết gây “chấn động” trong làng văn lúc bấy giờ và Ma Văn Kháng nổi lên như một ngôi sao sáng trên bầu trời văn học, một nhà văn tầm vóc của Việt Nam. Ma Văn Kháng được Ban thư ký Hội Nhà văn Việt Nam coi là phương án tốt nhất cho vị trí Tổng thư ký Hội Nhà Văn Việt Nam.
Hữu Thỉnh kể, đó là kỳ Đại hội “vô cùng dân chủ, vô cùng căng thẳng và sôi động, qua 5-6 ngày họp mà vẫn chưa xong”. Hữu Thỉnh giới thiệu Ma Văn Kháng cho chức vụ Tổng thư ký và đã được Ban Thường trực Hội đồng ý. Hữu Thỉnh được giao nhiệm vụ gặp riêng nhà văn Ma Văn Kháng để thuyết phục Ma Văn Kháng tham gia ứng cử chức Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa 4. Tại sân Hội trường Ba Đình, cuộc gặp giữa hai người bạn văn diễn ra thân mật, gần gũi, chân tình, nhưng không vì thế mà Hữu Thỉnh thuyết phục được đàn anh đáng kính. Ma Văn Kháng xin về suy nghĩ thêm để sáng hôm sau trả lời. Ma Văn Kháng đã từ chối tham gia ứng cử chức Tổng thư ký và Đại hội phải tiếp tục bầu chọn người đứng đầu Hội Nhà văn Việt Nam trong số 6 người: Vũ Tú Nam, Nguyễn Quang Sáng, Xuân Cang, Chính Hữu, Nguyên Ngọc và Hữu Thỉnh.
Nhưng Ma Văn Kháng vẫn tiếp tục tham gia Ban chấp hành phụ trách sáng tác. Hữu Thỉnh cho biết Ma Văn Kháng đảm nhận vai trò này của mình một cách gương mẫu, tận tụy, say đắm. Ông đọc những nhà văn khác rất kỹ và luôn trân trọng mọi tài năng.
Nhà văn Nguyễn Khánh Tình, một người bạn và là nguyên mẫu trong tiểu thuyết mới xuất bản năm 2016 của Ma Văn Kháng Người thợ mộc và tấm ván thiên nói về Ma Văn Kháng với cả tấm lòng trân trọng về tài năng và nhân cách. Ông không giấu giếm sự hàm ơn của mình trước nhà văn lớn: “Đọc tác phẩm của Ma Văn Kháng, tâm hồn tôi dịu đi. Trước tôi hiếu thắng lắm(?)”.
Ma Văn Kháng gốc Hà Nội, tên thật Đinh Trọng Đoàn. Nhà văn cho biết ông có hẳn một chứng minh nhân dân thứ hai mang tên Ma Văn Kháng. Là người biết một chút về tướng số, ông cho rằng mình “phát nhờ tên”. Ông bảo, 3 chữ A trong cái tên Ma Văn Kháng như ba đỉnh núi mạnh mẽ nâng đỡ cho sự nghiệp văn chương của ông. |
Chia sẻ với bạn đọc về thói quen viết văn, Ma Văn Kháng cho biết, ông viết một cách vô tổ chức, bất cứ lúc nào, rất dễ dãi chứ không có bất cứ một đòi hỏi “sang chảnh” nào trong khi viết. Hồi trẻ ông có thể viết thâu đêm. Nay, hứng thì ngày viết 1-2 giờ, đêm không làm việc nữa. “Tôi dễ dãi như mọi công dân bình thường”, ông nói. Ông chia sẻ không đặc biệt thích riêng một nhà văn nào. Mỗi người ông lại thích ở một khía cạnh và ông không chịu ảnh hưởng bất cứ nhà văn lớn nào. “Tất cả những gì mình đọc đều ở thể vô ngôn. Tôi thưởng thức văn chương của người khác bằng sự vô tư, hồn nhiên, để chúng ngấm vào mình như con ong hút mật hoa để tạo ra mật của mình”. |
Theo HƯƠNG XUÂN - TP
Hội Nhà văn Việt Nam được chính thức thành lập từ năm 1957, sau Hội nghị thành lập Hội diễn ra tại trụ sở Câu lạc bộ Đoàn Kết, từ 1/4 đến 4/4/1957. Trong lịch sử văn học Việt Nam thời hiện đại đây là lần đầu tiên có một tổ chức của những người lao động văn học trên toàn quốc.
Tái hiện bức tranh Hà Nội thời bao cấp, rồi từ đó đi tìm cái chất nhân văn thuần nhất trong đời sống con người, “Chuyện ngõ nghèo” là cuốn tiểu thuyết đánh dấu sự trở lại của Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh năm 2017 sau một loạt các tiểu thuyết đình đám như: Mẫu Thượng Ngàn, Hồ Quý Ly, Đội gạo lên chùa…
1. “Thiện, Ác và Smartphone” là tập tiểu luận thứ hai của Đặng Hoàng Giang, sau “Bức xúc không làm ta vô can” - cuốn sách ra mắt năm 2015 và gây được tiếng vang rộng rãi.
Nhân chuyến trở lại Việt Nam truyền giảng phật pháp, ngày 4-4, Tiến sĩ Phật học Khangser Rinpoche đến từ Ấn Độ đã dành nhiều thời gian giao lưu cùng bạn đọc tại TPHCM.
Nguyễn Trí được biết đến vào năm 2013 khi tác phẩm Bãi vàng, đá quý trầm hương (NXB Trẻ) đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam. “Sự nghiệp” cầm bút của Nguyễn Trí đến nay mới chỉ 5 năm nhưng ông đã có 9 cuốn sách truyện dài, truyện ngắn ra đời.
Phan Việt vừa có buổi giao lưu về tác phẩm mới nhất, cũng là tác phẩm chị cho là quan trọng nhất trong bộ ba "Bất hạnh là một tài sản" của mình.
Sáng 21-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TPHCM, đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận, phê bình Nhà văn Lê Văn Thảo trong lòng đồng nghiệp do Hội Nhà văn TP thực hiện (NXB Hội Nhà văn xuất bản).
Nhà sách Trí Việt cho biết sau gần 3 năm thực hiện với 6 lần chỉnh sửa, Hội đồng thẩm định cuốn sách “Gạc Ma - Vòng tròn bất tử” do Ban Tuyên giáo TƯ thành lập đã đồng ý cho phép xuất bản cuốn sách này.
Lịch sử phát triển của hệ thống thể loại báo chí cho thấy Bút ký chính luận giữ một vai trò quan trọng trong việc định hướng xã hội. Nó là thể loại không thể thiếu trong việc giáo dục tư tưởng, chính trị cho quần chúng. Trong một thế giới đương đại, trong một xã hội bùng nổ thông tin với nhiều biến động, Bút ký chính luận càng trở nên quan trọng và cần thiết cho đời sống.
Ngày 4 và 5/1, Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam tiến hành họp để bình chọn bảy tác phẩm xuất sắc của làng viết năm qua. Kết quả được công bố hôm 10/1.
Nghiên cứu công phu, tư liệu chính xác, văn phong mạch lạc và giàu cảm xúc, tác phẩm Văn chương phương Nam - một vài bổ khuyết của hai tác giả Võ Văn Nhơn và Nguyễn Thị Phương Thúy không chỉ khiêm tốn “bổ khuyết” mà là công trình giàu tâm huyết với những khám phá ngạc nhiên mới lạ rất hữu ích.
Nói về cuốn sách phê bình văn học Giăng lưới bắt chim của mình, Nguyễn Huy Thiệp hay nhắc lại điều thoạt tiên tưởng rằng ông "lấp lửng": tôi viết có đúng có sai, có chính xác có nhầm lẫn, viết khi mình "đang còn nửa mê nửa tỉnh".
Có một thực tế là rất nhiều người song hành giữa việc viết văn và viết báo. Xét về góc độ thể loại thì văn học và báo chí là hai thể loại khác nhau nhưng giữa chúng lại có sự tương đồng với nhau về nhiều khía cạnh. Vì thế việc song hành giữa văn chương và báo chí là điểu dễ hiểu.
hông biết đã đến đáy chưa thảm trạng tác giả (khoa học và nghệ thuật) bị xâm hại trắng trợn về bản quyền như hai công trình về dân tộc học của GS.Từ Chi, và về sử học của GS.Trần Quốc Vượng. Hai tác giả có tên tuổi đã quá cố, và những nhà xuất bản gây nên sự cố, làm méo mó, biến dạng đứa con tinh thần của họ lại là những nhà xuất bản có những cái tên rất sang, là cơ quan ngôn luận của những cái hội nghề nghiệp lẽ ra phải rất nghiêm chỉnh, đứng đắn trước công luận. Các cơ quan truyền thông đã lên tiếng. Không biết gia đình, thân nhân của hai tác giả có ý kiến gì không? Ta đã có lệ luật gì về những vụ việc như vậy, để đưa ra tòa án dư luận?
Chiều 7.10, Hội đồng giám khảo giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội gồm các nhà văn, nhà thơ: Bằng Việt, Nguyễn Việt Chiến, Phạm Xuân Nguyên, Bùi Việt Mỹ, Nguyễn Sĩ Đại, Lê Minh Khuê, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Thành Phong đã họp phiên chung khảo.
Ngày 4/10, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã đến dự và phát biểu tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Văn học, nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam” do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Tác phẩm văn xuôi, trong đó có truyện ngắn xuất hiện trên báo chí đã trở thành món ăn tinh thần nhiều năm nay cho độc giả. Tuy nhiên, dường như món ăn tinh thần này đang ngày càng có xu hướng bị co lại, bị thay thế.
Sáng tạo văn học nghệ thuật về đề tài chiến tranh, cách mạng thời gian qua đã có nhiều đổi mới và được giới chuyên môn ghi nhận.
Viết về cuộc Cách mạng mùa Thu 70 năm về trước, nhà văn Nguyễn Đình Thi - người can dự, đồng thời là chứng nhân của cuộc cách mạng vĩ đại đó (Năm1945 ông dự Hội nghị Quốc dân Tân Trào và được cử vào Ủy ban Giải phóng dân tộc; sau đó được bầu làm Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I là Ủy viên thường trực) đã ví nó giống như “một cuộc lột vỏ”, “rũ bùn” đứng lên của con người, của dân tộc Việt Nam: Súng nổ rung trời giận dữ/ Người lên như nước vỡ bờ/ Nước Việt Nam từ máu lửa/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa (Đất nước).
Sau gần 30 năm thực hiện đường lối đổi mới về văn hóa văn nghệ được đề ra trong Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 12/1986), văn học Việt Nam đã có nhiều bước chuyển sâu sắc, đạt nhiều thành tựu đáng kể trên tất cả các thể loại, góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, tinh thần của con người và xã hội.