Đọc hai tập thơ "Trên mặt đất" và "Qua cửa" của Đặng Huy Giang

10:59 27/05/2008
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.

Ấn tượng về một giọng thơ trẻ trung, ngay thẳng, dứt khoát. Ấn tượng về một cách diễn đạt mạch lạc với những ngẫm trải đột khởi. Ấn tượng về cách kiến trúc từng bài thơ với tiến độ nhanh, thoáng, giàu khơi gợi. Ấn tượng về một phong cách thơ đã khá định hình.
Điều thú vị là sự vắng bóng thơ văn xuôi trong cả hai tập. Trong lúc các tác giả khác cho in những bài, những câu dài dặc thì với Đặng Huy Giang, từng câu, từng ý được tung ra một cách trực diện, gọn nhẹ, mang nặng những ý tưởng anh thiết kế. Anh không ngại khẳng định lại một quan niệm xa xưa, nhiều người thường nói. Thí dụ, cái ý tưởng hạnh phúc mong manh đau khổ muôn thuở ngỡ như thiên hạ đã bàn xong rồi. Nhưng anh chủ động đặt lại: Gom bao khổ đau/ Thì thành hạnh phúc. Rõ ràng vấn đề trở nên mới mẻ hơn, hiện đại hơn.
Đặng Huy Giang có lối dụng từ ngữ mạnh bạo, sát ván, bóc ra từng vóc người, từng thân phận điển hình. Những ý tưởng liên kết chặt chẽ với nhau, tạo nên những hình khối riêng biệt, gộc gạc. Ý tưởng có lúc vụt lên khái quát cho một thế hệ, cho nhiều thế hệ:

Những người đàn ông trẻ mãi không già
Những người đàn bà già mãi không trẻ
(Thời cổ tích)
Những phân cực trong cuộc sống không cần rào đón, che chắn: Một bên: Tận gốc bị hắt hủi và bị xua đuổi/ Một bên: Tận ngọn được nuông chiều và được nâng niu... (Bờ rào). Từng cặp hai câu một xiết ngược chiều nhau, gây được ấn tượng mạnh: Đầu bạc trắng đến nỗi/ Tóc quên mình vốn đen (Đến nỗi). Ý thơ được triển khai nhiều hướng quanh trục Đến nỗi, xoắn xiết, đẩy hơi thơ đi gấp gáp, hối thúc, như những con sóng lặn khỏi mặt nước, hăm hở lao về đầu thác, để rồi bất chợt đổ ào xuống một vịnh xanh yên ả:
Nhắm mắt và lặng im
Anh yêu em đến nỗi
Anh nói với người mình yêu hay vỗ vào lòng anh đang yêu đầy ắp?

Tôi ngồi ngắm nghía câu thơ: Rồi cũng phải về nhà ta con ạ, mà cứ mủm mỉm hình dung ra người viết nó - một ông bố thi sĩ và đầy trách nhiệm. Người bố thấy tư chất của mình, bóng dáng của mình đang lớn dần trong con mình:
Một phần tôi trong con đang lớn
Một phần tôi trong con đang đi
Một phần tôi trong con đứng thẳng

(Một phần tôi)
Một kỷ luật sống trong gia đình được thiết lập: Ăn theo con/ Ngủ theo con/ Đi đứng theo con/ ... Hát theo con/ Cười theo con/ Nghĩ theo con... và ông bố phải thốt lên láu lỉnh. Bốn tư tuổi đuổi theo bảy tuổi.
Bên cạnh những tứ thơ có phần khô khan đôi lúc ta cũng bắt gặp những suy cảm mướt mọng. Ấy là khi Mùa đông vời vợi trăng/ Người đàn ông cô độc. Ấy là khi trong không gian của miên man suy tưởng, cà phê Thạch Thảo nhỏ xuống từng giọt, hoa thiên lý chợt thơm đến khác thường, và lá vườn chợt ánh lên từng ngấn trăng. Ai biết ý nghĩ hoa như thế nào mà tâm trạng cứ bị vấn vít? Có phải vì cánh tay bị thương của lan cẩm cù/ xù xì và nâu như tâm trạng/ Ấy là khi câu thơ khoác áo ca từ bay theo nét nhạc nhân ái nhân hòa:

Rồi mưa đã rơi đầy
Lời mưa rất dông dài
Bàn tay nắm tay nào
Người ơi!

(Người ơi)
Viết về họ nhà rùa - một giống loài cụ thể mà khai quát được một vấn đề trừu tượng, mang tính hình tượng đặc sắc. Rõ ràng chất liệu đời sống đã được thăng hoa lên thi tứ, mà cảm xúc toàn bài vẫn thật đầy đặn căng mọng. Thành công của bài thơ cũng là thành công của một phong cách độc đáo.
Qua cửa rõ ràng nặng ký hơn Trên mặt đất. Nói thế không có nghĩa Trên mặt đất không có những thành công, những đóng góp. Chùm thơ: Hỏi, Lan cẩm cù, Dây cháy chậm, Mọc và lặn, Một trăm phần trăm v.V... là vệt thơ trúng đích. Song nhìn chung, độ nén của Trên mặt đất không cao và điều đặc biệt, không "đời" bằng Qua cửa.
5-2001

 TRẦN QUỐC THỰC
(nguồn: TCSH số 150 - 08 - 2001)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".