Đọc “Vông vang” của Lê Tấn Quỳnh - Hành trình của ảo giác hoa

14:32 30/03/2009
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không

Khi ý niệm câu hỏi vừa hình thành cũng là thời khắc hé nở một bông hoa vông vang trong tâm tưởng Quỳnh. Và kể từ giây phút đó anh đã lao vào một cuộc tìm kiếm:
Tôi tìm hoa
Tôi tìm tôi
...
Mà như thiếu nợ
giữa trời
Thi ca

Hành trình đi tìm hoa cũng là hành trình đi tìm cái đẹp của thi sĩ, mà văn hào Dostoevsky đã nói: “cái đẹp sẽ cứu rỗi thế giới”. Cái đẹp ở đây, phải chăng là cái đẹp trong mỗi cá thể, sự thăng hoa của mỗi tâm hồn cùng hòa lại tạo thành cái đẹp của xã hội. Nhưng để có được cái đẹp đúng nghĩa thì không thể thiếu chân và thiện. Điều này lý giải vì sao Chân Thiện Mỹ luôn đồng hành cùng nhau.
Trên con đường kiếm tìm cái đẹp, tác giả như rơi vào những vòng cung đầy mê hoặc:
Đó là cuộc khép mở của những nỗi bờ tức ngủ
Cứ giăng ta ngơm ngớm đường cong
để rồi
Trong chiếc đồng hồ bụi phủ
Cái xoay kim không cứu nổi một vòng...

“Một vòng” nghe sao quá đơn giản, vậy mà mấy ai đi hết được vòng đời. Phải chăng mỗi chúng ta là một chiếc đồng hồ phủ đầy bụi của đời, bụi của tri thức, của sự vong thân và của nỗi ám ảnh mơ hồ về thời gian. Và một ngày nào đó chợt nhận ra rằng, chúng ta chưa bao giờ đi hết một vòng người.
Gửi cả vào ngày phiến sông mền mệt
Với cuộc - trôi - người - bóng lao xao

Sau một ngày tất bật, soi mình bên bến sông tưởng chừng để được ngơi nghỉ, nào ngờ đâu trong thăm thẳm vẫn lưu tồn một cuộc - trôi - người - bóng lao xao.
Trong tập thơ Vông Vang gồm 33 bài, tác giả đã tạo ra những hình ảnh và câu chữ mới, bằng một âm hưởng cưỡng bức qua những kỹ thuật cắt từ và ghép từ nhưng chưa đạt đến tự nhiên. Điều này đã khiến người đọc rơi vào những khúc trầm và đôi khi hụt hẫng, mà trong âm nhạc chính là những dấu lặng nhằm tạo ra khoảng sâu trong người thưởng ngoạn. Ở đây, tác giả gọi là những nốt câm:
Học nói tên mình với những nốt câm
Nhiều hình ảnh mới đã được tác giả tạo ra như:
Những vỡ vạc trắng từng cọng máu
Mảnh sân già thâm thấm nắng như trôi

Nhiều bài thơ trong tập còn sử dụng rất nhiều từ láy và hình ảnh thành phố như một ngụ ngôn mà Lê Tấn Quỳnh muốn nhắn nhủ với mọi người:
Thành phố
Một đường gân dài manh da hoá quặng
Và những lúc mảnh trăng non ngơ ngác giữa vòm trời đã kéo căng “bài thơ đô thị” vào cung bậc thi ca:
Thành phố
Chiếc liềm nhỏ cứa lên mê khúc
hay
Thành phố thông gió trái tim
...
Thành phố thắt đáy lưng ong
với đường cong nỗi bọt
...
Thành phố rêu...

Thành phố nơi Quỳnh đang sống được mệnh danh là thành phố thi ca và cũng rất mong manh mỗi khi chiều xuống, đó là những phút giây thi sĩ chợt nhìn về phía trời tây và cảm nhận:
Thành phố như một ráng mây

Thành phố nuột nà đến tận cái mong manh
trong những ngày thành phố này nở rộ những đoá hoa mưa, đẹp và buồn đến não lòng, một loài hoa của ảo giác trong những ngày:
Thành phố đầy mưa
Và trong bài “Vô Cảm” thi sĩ như đã cảm ngộ:
Nửa cơn gió cũng trốn tìm bặt câm
Sau cái phủ phê lạnh lùng của chớp
Ở cơn say mang dung môi nườm nượp
Những hình nhân rờ rẫm đoán chi nhau

Cuối cùng, tác giả nhận ra tuồng ảo hoá đang bị thời gian điều động:
Trong cái ảo giác cộm lên tất bật cũn cỡn
Bới cào nháo nhác thứ ngôn ngữ vo ve
hay
Những con ruồi rụng từ sâu tích tắc
Học lóm thời gian từ cái ngửa mặt trôi
Thời gian như một nỗi ám ảnh đã dẫn dắt nhà thơ nhập vào cơn ảo giác về một cuộc người, để rồi
Ngay cái nhìn cũng bạc
Tan đi ruỗng mục trong đời..

Những cánh tay vuốt mùa ra trên tuổi
Thời gian khấp khới bước qua sân.
L.H.L
241/03-09

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TÔN PHƯƠNG LANCũng như những nhà văn mặc áo lính thuộc thế hệ đầu và tờ tạp chí Văn nghệ quân đội của họ, Trần Dần là một tên tuổi quen thuộc mà gắn với tên tuổi ông là cuốn tiểu thuyết Người người lớp lớp. Là một học sinh thành phố, khi Cách mạng tháng Tám thành công, 19 tuổi, ông bắt đầu hoạt động cách mạng rồi đầu quân tham gia kháng chiến chống Pháp và hoạt động văn nghệ.

  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".