Đọc “Thơ Phùng Quán”

16:40 11/08/2008
NGUYỄN BÙI VỢICách mạng tháng Tám thành công, Phùng Quán mới 13 tuổi. Mồ côi cha từ năm 2 tuổi, cậu bé sinh ra ở làng Thuỷ Dương xứ Huế chỉ được học hết tiểu học, sáng đi học, chiều giúp mẹ chăn trâu, có năm đi ở chăn trâu cho một ông bác họ.

Nửa ngày phơi nắng, phơi mưa ngoài đồng, đuổi nhau, lặn ngụp nước ao, dưới sông rồi trèo lấy tổ chim non, đổ nước vào hang dế... chơi trò nào, Phùng Quán cũng là đứa bé nhiệt tình, hăm hở và có sáng kiến nhất.
Cái không khí náo nức của xóm làng những ngày đầu cách mạng, tiếng hô “đi đều bước” và nhịp trống rộn ràng của đội thiếu niên ca-lô nâu vàng rầm rập... “một hai một” đã làm cậu bé nôn nao! Phùng Quán trốn nhà, tìm đến một đơn vị Vệ quốc đoàn gặp chỉ huy xin đi đánh Pháp. Quán được nhận làm liên lạc của tiểu đoàn, sống trong doanh trại bộ đội. 17 tuổi, anh chính thức được phiên chế vào đơn vị chiến đấu. 18 tuổi, anh bắt đầu làm thơ, những câu thơ sôi sục tinh thần chiến đấu chống ngoại xâm, tràn ngập niềm tự hào về nước Cộng hoà trẻ tuổi. Các cấp chỉ huy ở đơn vị thấy Phùng Quán thông minh, ham học hỏi đã khuyến khích anh học văn hoá, có tờ báo nào là đưa cho anh đọc.
Bài thơ đầu tiên, tôi đọc của Phùng Quán là bài thơ “Hôn” viết năm anh 22 tuổi:
            Khi người ta yêu nhau
            Hôn nhau trong say đắm
            Còn anh, anh yêu em
            Anh phải đi ra trận.

Khẩu khí của lính, có mùi trận mạc, thoáng hơi hướng thơ Pê-tô-phi. Phùng Quán cùng lứa với tôi, hơn tôi một tuổi, nên đọc thơ bạn, tôi đều lấy lòng mình ra đo. Tôi gặp Phùng Quán năm 1956 ở Hà Nội - cái năm định mệnh đã đưa Phùng Quán ra khỏi phòng Văn nghệ quân đội khi ánh hào quang của tiểu thuyết Vượt Côn Đảo tắt dần. Chúng tôi dễ thân nhau vì cùng một cái “típ” người “Tinh anh phát tiết ra ngoài...”(Kiều), bồng bột, xốc nổi, yêu ghét hiện ra mặt, cả tin, dễ buồn, dễ vui... Tuổi trẻ có không biết bao nhiêu thói xấu, nhưng nếu Trời không “ban” cho những thói xấu đó thì chúng tôi làm sao có thể đến được với Thơ? Hồi đó, đọc mấy bài thơ dài của anh như: “Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo” (1954), Tôi tự hào chế độ nước tôi (1955), Tôi muốn mời đến Tổ quốc tôi (1955), lòng tôi nhiều khi run lên vì phấn khích:
            Bạn hãy vượt qua một vạn con sông
            một vạn trái đồi
            Thấy một xứ sở giang tay ôm biển lớn
            Việt Bắc, Trường Sơn, núi cao rừng rậm
            Đồng Tháp Mười mỏi cánh cò bay
            Lòng chảo Điện Biên vạn quân thù tan nát ở đây
            Đồn luỹ hôm qua xanh màu ruộng cấy
            Nước Việt Nam anh em ở đấy.. v.v...
Càng lớn tuổi, lòng yêu thương những bài thơ ấy cứ giảm dần và sắp đến tuổi “cổ lai hy” thì lại có phần khó chịu vì hiểu ra thơ không phải như thế, thơ không được nói trực tiếp, không được nhiều lời, không được đao to, búa lớn, thơ nói chuyện này mà bắt người đọc phải nghĩ về chuyện kia, nói trời mây mà nói đến lòng người đang buồn thăm thẳm... Sau này, tôi biết khi trong bộ đội, Phùng Quán là tay độc tấu rất giỏi, sôi sục, lôi cuốn. Thời ấy tôi nghe nói chỉ có ba người độc tấu cừ: Thanh Tịnh, Hoàng Cầm, Phùng Quán.
Ba bài thơ dài của anh thời ấy tôi thích đều đầy nhiệt huyết với đất nước, với nhân dân nhưng cũng đầy chất tấu.
Trong chùm thơ viết theo kiểu ấy, tôi để riêng ra bài “Chống tham ô lãng phí”, vì đây là bài thơ bộc lộ tính cách và nhân cách Phùng Quán rõ nhất: anh không viết bằng mực nữa mà viết bằng máu của mình (tuy nó có hơi hướng Mai-a). Đất nước sau chiến tranh thiếu thốn trăm bề với “Những bà mẹ quấn giẻ rách/ Da đen như củi cháy giữa rừng” với “Hai mùa rồi lúa không có một bông/ Phân người toàn vỏ khoai tím đỏ” với “Những em thơ còm cõi... Cơm thòm thèm độn cám và rau” với “chị em công nhân đổ thùng/ Run lẩy bẩy chui hầm xó tối”... thế mà:
            Về Định mà xem
            Đài xem lễ họ cao hứng dựng lên
            Nửa chừng bỏ dở
            Mười một triệu đồng dầm mưa giãi gió
            Mồ hôi máu đỏ mốc rêu.
Hồi ấy, bậc 1 lương cán sự tốt nghiệp trung cấp là 36 đồng, giá trị của 11 triệu đồng lúc ấy theo mức lương bây giờ mà tính ra là hơn 1 tỷ. Người ta đổ đi không tiếc hơn một nghìn triệu đồng mồ hôi nước mắt của nhân dân!
Càng về cuối, Phùng Quán như gầm lên:
            Bọn tham ô, lãng phí, quan liêu
            Đảng đã phê bình trên báo
            Còn bao tên chưa ai biết ai hay
            Lớn bé, nhỏ, to, cao, thấp, béo gầy...
            Chúng nảy nòi sinh sôi như dòi bọ
Bài thơ đã cảnh báo một tai hoạ của đất nước, thế mà tiếc thay đến đầu thế kỷ 21 này, 45 năm sau Đảng Cộng sản trong công việc chỉnh đốn Đảng lại phải ráo riết kêu gọi “chống tham nhũng, lãng phí!”. Tham nhũng còn nặng hơn tham ô.
Năm 1958, tôi dạy học ở Vĩnh Phúc, ngày dạy ở trường phổ thông, mỗi tuần bốn tối dạy bổ túc văn hoá cho cán bộ các cơ quan tỉnh. Năm ấy, Quán bị... rồi. Một hôm, phấn khích một cách dại dột tôi đọc hùng hồn bài thơ “Chống tham ô lãng phí” cho học viên nghe. Im phăng phắc. Không khí trong lớp ngột ngạt như trước bão. Tôi nhìn rõ cả nét giật giật trên mặt một ông Trưởng ty ngồi bàn đầu.
Từ bàn thứ ba, một học viên mặt mũi phương phi, tóc hoa râm đứng dậy:
Tôi xin hỏi thầy giáo: Phùng Quán lấy tư cách gì mà phê phán xã hội như thế?
Tôi điềm tĩnh:
- Thưa anh, trước hết tác giả lấy tư cách công dân rồi mới lấy tư cách nhà thơ. Phùng Quán không phê phán xã hội mà phê phán tệ nạn xã hội: đó là tệ tham ô, lãng phí.
Bài thơ này, không ai nói gì trên báo nhưng đến năm 1958, khi anh in “Lời mẹ dặn” thì Phùng Quán bị báo chí phê phán, mà khởi đầu là bài viết của ông H.V.H (ký bút danh tôi không nhớ nữa, in trên báo Nhân dân).
Cái lõi ý tưởng của bài thơ là:
            Người làm xiếc đi dây rất khó
            nhưng chưa khó bằng làm nhà văn
            đi trọn đời trên con đường chân thật
            Tôi muốn làm nhà văn chân thật
            Chân thật trọn đời
            Đường mật công danh không làm ngọt được lưỡi tôi
            Sét nổ trên đầu không xô tôi ngã.
Để dẫn đến điều ấy, anh phải bịa ra việc một lần anh nói dối mẹ suýt bị ăn đòn, mẹ khuyên anh phải làm người chân thật, anh chưa hiểu được mẹ giải thích:
            Con ơi một người chân thật
            Thấy vui muốn cười cứ cười
            Thấy buồn muốn khóc là khóc
            Yêu ai cứ bảo là yêu
            Ghét ai cứ bảo là ghét
            Dù ai ngon ngọt nuông chiều
            Cũng không nói yêu thành ghét
            Dù ai cầm dao doạ giết
            Cũng không nói ghét thành yêu
(Dạo ấy, tôi góp ý với anh sửa chữ “cầm” bằng chữ “giơ” (giơ dao doạ giết) nhưng anh không nghe)
Ngẫm cho cùng, bài thơ không sai gì cả. Những lời mẹ dặn anh muôn thuở vẫn là bài học vỡ lòng về cái sự làm người mà ở xã hội nào, con người nào cũng phải có.
Bài thơ được sắp xếp lớp lang, là loại thơ “luận đề” với cái chất ồn ào của Phùng Quán. Người ta phê phán vì khó chịu với cách nói vỗ mặt, quyết liệt, châm chọc của anh chăng? Trường hợp này rõ là: “Yêu nên tốt ghét nên xấu!”
Vì đã thiệt thòi, vất vả nên làm thơ về cây cỏ, hoa lá, Phùng Quán cũng cứ “một lời là một vận vào khó nghe”. Anh khiếp phục cây vạn niên thanh chỉ vì:
            Anh uống độc khí trời
            Anh xơi
độc nước lã
            Anh vẫn tràn trề sức lực tươi xanh.
Anh yêu cây xương rồng “không cành cũng không lá/ Toàn những thân với thân/ Mà thân thì dựng ngược/ Như gậy gộc nghĩa quân”. Anh gọi ra cái bản chất cốt tuỷ của xương rồng:
            Mọc lên từ cát lửa
            Hồn vẫn xanh mát trong
            Che chở người lương thiện
            Trộm cướp đều ngại ngùng
            ... Hay xương người nghĩa khí
            Ngã xuống rồi hoá thân?
Anh nhờ cây dứa dạy cho anh “cách chắt lọc từ khô cằn sỏi đá/ Chắt mật mát lành dịu nắng lửa trăm cơn” để giúp anh:
            ... từ cuộc sống gian lao, bất trắc khôn lường
            Tôi vẫn viết được
            Dâng tặng đời
            Những trang văn đầy ắp mật.
Sử dụng cách hư cấu chi tiết của văn xuôi, anh viết bài thơ “Cây mận Vĩnh Linh” rất lạ. Có một người vợ sắp làm mẹ, ăn rở của chua, cắn trái mận thì bom Mỹ ném trúng giữa nhà. Khi Vĩnh Linh im tiếng súng, nơi chị ngã năm xưa sum suê một cây mận, quả trĩu cành, nhưng lạ chưa:
            Trái nào tôi cũng thấy
            Cắn giở có vết răng
Cái vết răng ấy đã ám ảnh tâm linh người chồng khôn nguôi để anh nhìn trái mận nào cũng như có vết răng cắn giở của vợ!
Trường ca cây cà”có 56 dòng thơ mà anh chia làm 6 chương, có chương chỉ có 5 dòng, chương nào cũng có chức phận, có điều để ký thác, gửi gấm tâm sự như:
            Biết khổ đấy
            Mà không ngại khổ
            Bởi đất sinh là để làm cà
            Mặc cho sâu róm đầy cành
            Rễ còn bám đất
            Còn khôn nguôi tím nguôi xanh
Anh viết một bài thơ động viên Hoàng Cầm, một bài thơ ca ngợi Văn Cao, cả hai bài đều mãnh liệt, hay ở chỗ mãnh liệt ấy.
Là người lạc quan nhưng hoàn cảnh riêng quá ngặt nghèo, có lúc anh phẫn chí. Bài thơ “Say” chẳng qua là mượn rượu đưa lời để ký thác tâm tư. Những năm 90, Phùng Quán làm một cái chòi tre trong vườn, ngoảnh mặt ra Hồ Tây, anh đặt tên là “Lầu ngắm sóng” cho oai! Bạn bè ở Hà Nội và các tỉnh xách rượu lên lầu uống với Phùng Quán:
            Chiếu rách ta ngồi
            Lắc lư thuyền sóng
            Cái giường long mộng
            Một dòng sông trăng
Phùng Quán thấy mình đang cùng Lý Bạch ôm trăng nhưng hoá ra: “Mạn thuyền vừa cúi/ râu tóc bỗng lừng/ Mắm tôm, chanh ớt/ Trăng ta vồ được/ Một mảnh ni lông”... Đau đớn chưa, hở Giời!
Từ phẫn chí đến nói ngông chỉ là gang tấc:
            Mời bác Ba Vì xích lại đây
            Ta cùng tuý luý ngắm sóng say
            ... Tôi thì làm thơ, bác làm núi
            Nhớ nhau tưới rượu xuống hồ Tây
Cái cung cách ấy, tôi không thích nhưng thông cảm. Chất thi sĩ đích thực của Phùng Quán bộc lộ rõ nhất ở bài thơ “Tạ” viết về làng Thuỷ Dương quê anh. Lần ấy Mặt trận Tổ quốc xã anh tổ chức một cuộc để nhà thơ quê hương về bái tổ, gặp gỡ bà con dân làng. Phùng Quán quỳ xuống lạy quê hương, lạy bà con cô bác rồi đọc thơ, bài “Tạ” xúc động nghẹn ngào:
            Con tạ đất làng quê
            Thấm đẫm máu bao anh hùng đã khuất
            Không ngọn cỏ nào không long lanh nước mắt
            Không lá cây nào không mặn chát gian lao.
Anh yêu nồng nàn mảnh đất của Tổ quốc đã sinh ra anh, tạ ơn những gì đã nuôi dưỡng anh thành người:
            Con tạ đất làng quê
            Manh chiếu rách con nằm
            Con tạ
            Bát cơm nghèo mẹ con ăn
            Con tạ
            Câu dân ca mẹ con hát
            Tất cả thành sữa ngọt
Sức viết, sức nghĩ và khả năng liên tưởng, ký thác mạnh mẽ của Phùng Quán còn bộc lộ trong “Đêm Nghi Tàm đọc Đỗ Phủ cho vợ nghe”. Bài thơ quyết liệt khẳng định thơ chân chính bao giờ cũng đi cùng mồ hôi nước mắt của nhân dân. Và khi đã tự nguyện đi cùng nhân dân thì:
            Đã đi với nhân dân
            Thì thơ không thể khác
            Dân máu lệ khốn cùng
            Thơ chết áo đắp mặt
Có một hồi, Phùng Quán thấy mình không viết được nữa. Nhân cơ quan anh - Bộ Văn hoá có một khu đất tăng gia sản xuất ở Thái Nguyên, anh xung phong lên trông coi. Phùng Quán ở một mình trong cái lều anh tự dựng, trước mặt là con suối Linh Nham, bắt ốc dưới suối mà ăn, nuôi gà lấy trứng bồi dưỡng, trồng sắn, trồng khoai, gà và người cùng ăn, đẽo lấy guốc mộc mà đi... Vẫn không viết được, Phùng Quán khoác tay nải đựng vài bộ quần áo chàm cũ bạc, một tập thơ Cao Bá Quát một tấm ảnh nhà văn Nga Đốt-tôi-épski về lại Huế yêu thương.
Anh gặp và yêu một thiếu phụ Huế đẹp một cách kiêu sa và ý thơ lại cuồn cuộn. Tiểu thuyết tình bằng thơ 13 chương của anh đọc thật hấp dẫn và thú vị nì nó bộc lộ tài năng của một nhà văn và một nhà thơ. Thiếu phụ Huế kiều diễm và kiêu sa kia phải chăng là hình ảnh Nàng thơ mang tính ẩn dụ. Anh yêu Nàng đắm đuối nhưng Nàng đã chối từ:
            Nếu không được ngồi
            Thì tôi xin đứng
            Cùng với chổi em dựng xó nhà
            ... Em giận dữ la lên
            Đứng trong xó nhà cũng không được đứng!...
Dù bị chối từ anh vẫn yêu Nàng thơ, yêu Đất nước và anh tin khi chết đi rồi, anh lại hồi sinh...

Phùng Quán đã sống những ngày thật say mê của tuổi trẻ bồng bột và tin yêu của người lính gan dạ, hiên ngang ngoài mặt trận. Anh cũng đã được sống những phút ngất ngây khi ký 3000 cuốn tiểu thuyết Vượt Côn Đảo để gửi vào tiếp sức cho đồng bào miền Nam giữ vững lòng tin và ý chí đấu tranh, những phút phanh ngực áo đọc thơ cho công chúng nghe thâu đêm bài này đến bài khác. Phùng Quán khi quá say, quá mê đã... gặp nạn. Nghề nào cũng có tai nạn lao động nhưng nghề văn thì không được phép! Nếu không vấp váp, bây giờ trên cầu vai áo anh chắc cũng lấp lánh quân hàm đại tá. Riêng tôi nghĩ đại tá ở nước ta thì nhiều, nhưng một người mà... hai “nhà” ra nhà như Phùng Quán, e hiếm...
N.B.V

(nguồn: TCSH số 157 - 03 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H