Đọc "Mắt lá" của Tôn Nữ Thu Thuỷ

15:24 27/07/2009
KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thuỷ - Ảnh: nguyenthuyai.com

Trong dòng văn chương của "nhóm Huế" đương đại, tên Tôn Nữ Thu Thuỷ quen thuộc trên các tạp chí như Sông Hương, Nhớ Huế, Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Văn Nghệ Quân Đội... và trên nhiều tuyển tập của các nhà xuất bản từ địa phương tới Trung ương, được độc giả biết đến và nhiều bạn thơ, bạn văn đã giới thiệu trên báo với sự trân trọng, quí mến.

Tính đến nay, Tôn Nữ Thu Thủy đã cho ra đời 5 tập thơ, trong dó có tập dành cho thiếu nhi "Hoa Hồng xanh", tập "Dòng sông khoảng đời", "Viết tặng ánh lửa", "Trái đất đang nóng dần lên" và "Mắt lá" xuất bản gần đây nhất (NXB Trẻ 2002)

Bằng giọng thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng, trữ tình, mộng mơ, tinh tế mà gắn bó với cuộc sống đời thường, thơ của Thu Thuỷ rất riêng, đọng lại trong lòng người đọc một chút gì đó bâng khuâng, mơ mộng trước cảnh đẹp thiên nhiên, hay ngậm ngùi trước thân phận của người phụ nữ, cả cuộc đời phải đội gió đội mưa vì mái ấm gia đình, vì một tiếng cười con trẻ. Hãy nghe cơn mưa của chị:

            "Con đường một màu áo xám
            Mịt mù tầm tã mưa mau
            Đâu cơn mưa thời thiếu nữ?
            Rơi nghiêng mưa ru rì rào

            Người phụ nữ lẫn trong mưa
            Sũng ướt đôi vai trĩu gánh
            Quên bài ca mưa thần thánh
            Lạnh trong cái lạnh thấm dần


Và: "... Chị uống từng hạt mưa", "Chị run run trong mưa" với "Trái tim nung nấu che chở". Bài thơ kết thúc rất có hậu:

            Chị trở về bên cửa
            Mang theo hơi ấm cuối cùng.

                                             (Mắt lá)

Nỗi niềm trong mưa thật là vời vợi, những giọt nghiêng nghiêng trĩu nặng niềm vui quyện với nỗi buồn. Chị nhìn mưa bằng tấm lòng của người mẹ, người đã quên đi thời thiếu nữ, cái thời vô tư đùa giỡn dưới mưa mà giờ đây lẫn trong gió mưa, đôi vai trĩu gánh với những bước chân nôn nao mong được trở về bên tiếng cười con trẻ, trong ngôi nhà sau rặng cây xa.

Tôi đọc 4 câu thơ cuối mà thấy rưng rưng như người mẹ đó chính là mình, đơn độc biết bao, nhỏ bé biết bao trong giông bão của đất trời, nhưng vẫn lầm lũi dưới mưa mà nghe "sầu vui tràn ngập" vì có đàn con chờ đón ở nhà, vì mong mỏi mang về cho con "hơi ấm cuối cùng"

Tôi đã đọc những bài thơ mưa của nhiều tác giả khác nhau nhưng đa phần là mưa tình nam nữ, mưa lất phất sầu đời, rất hiếm khi nghe hạt mưa đượm tình mẫu tử như của chị. Có lẽ, chính vì vậy mà bài thơ "Đi qua mưa" đã trở nên riêng và gợi cho tôi bao điều trắc ẩn.

Trong "Mắt lá" không có bài thơ "nền" mang tên tựa mà rải rác đây đó có những câu thơ nói về "đôi mắt mang hình chiếc lá", đôi mắt qua sự ví von bởi phương pháp nhân cách hoá của nhà thơ khiến ta thấy trở nên sinh động, dễ thương như đôi mắt xanh dịu dàng của một người dấu yêu nào đó, hay là nhà thơ muốn nhờ thiên nhiên tỏ bày cái ý, cái tình của mình:

            "Có một đôi mắt nhìn như lá
            Vườn hoa vừa nở chớm bên đời
            Mai sau bóng vườn thành hư ảo
            Anh có nhìn ra một nét cười
?..."
                                                (Mắt lá)

Chiếc lá đã trở thành hình tượng thơ của Tôn Nữ. Nó đa tầng, đa nghĩa, nhưng chỉ có một gam màu: tươi nguyên, hồn hậu và lạc quan. Đó là "đôi mắt nhìn như Lá" như có "một nét cười", phía sau câu thơ hồn nhiên ẩn chứa những thú vị bất ngờ. Vẫn là như lá đó nhưng "có những ánh màu tươi" và hơn tất cả là "những niềm hạnh phúc kỳ lạ" (Lá mùa xuân)

Nhà thơ Trần Hữu Lục, đã viết "Thơ của Tôn Nữ Thu Thuỷ đằm thắm, nhuần nhị, tinh tế, giàu hình tượng và ám dụ kép" (Sài Gòn nhớ Huế). Thật vậy, đọc thơ Tôn Nữ đôi khi ta tìm thấy những điều gợi mở như thực, như mơ, thân thuộc mà sâu xa, giản dị mà trí tuệ. Có thể tìm gặp điều gợi mở như thế trong mấy câu thơ sau:

            "Khoảnh khắc mùa đông bay qua cửa
            Anh về trên ngọn nắng vàng hanh
            Ta lắng nghe buổi chiều vừa mở
            Như thể hoa hồng và lá xanh
"
                                    (Buổi chiều hoa hồng và lá xanh)

Vậy đó! Chỉ là chiếc lá mong manh thôi nhưng nhà thơ đã tả rất gợi, rất cảm. Không chỉ trong "Mắt lá" mà trong cả "Hoa Hồng xanh" thơ thiếu nhi cũng có bài "Lá hát" ngộ nghĩnh, dễ thương. Bài thơ tự sự của gió và bé, mạch thơ giản dị, có bóng dáng của câu hát đồng dao, mở ra một thế giới "trong ngần":

            "... Lá chuỗi ngọc ơi!
            Ngàn lá nghiêng nghiêng
            Ngàn lá xạc xào
            Có bài hát nào
            Ngân nga suối nắng
            Có bài hát nào
            Xôn xao mùa xuân
            Bé hoà với lá
            Tiếng ca trong ngần
".
                                    (Lá hát)

Rải rác đây đó trong "Mắt lá", Tôn Nữ Thu Thuỷ đã dùng những từ, cụm từ và những câu hay, lạ như: "Xanh rực yên lặng", "Lặng lẽ rực rỡ", "Có những con chim Yến đang thổ huyết xây tổ đời mình"... Trong cấu trúc, nhịp điệu, trong phương pháp sử dụng ngôn từ ở Thu Thuỷ toát lên vẻ mềm mại, đắm sâu và trang trọng.

Nói về văn chương, chị bộc bạch: "Tôi vẫn ở trước từng ý nghĩa, từng trang giấy trong cuộc đời và vẫn nuôi dưỡng cảm xúc để có thể viết được. Điều lo sợ là những câu thơ của mình tẻ nhạt, sáo mòn, cũ kỹ đi. Vậy thì không được lặp lại chính mình, phải tự lột xác, phải ấp ủ, trở trăn thao thức, nhiều khi phải chịu bao nỗi đớn đau - như một người mẹ sinh ra con mình.

Tôi vẫn nhớ câu nói của Xuân Quỳnh: "Thơ hay bao giờ cũng mới"

"Thơ hay bao giờ cũng mới" Vâng! Đúng vậy. Đó là điều lo nghĩ chung của các nhà thơ. Ở góc độ nào đó, thơ của Thu Thuỷ đã mới, đã lạ chưa? Câu trả lời nghiêng về phía người đọc. Riêng tác giả bài viết nầy đã cảm được cái tâm, cái hồn của thơ và muốn giới thiệu với bạn đọc một giọng thơ riêng, một nhà thơ nữ rất Huế, rất dịu dàng.

Hạ 2003
K.Q
(182/04-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH TÂM    

        …đi về đâu cũng là thế… 

  • GIÁNG VÂN

    LGT: Tháng 4/2018, Nxb. Europa (Hungary) đã dịch và ấn hành tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, (Giải thưởng Hội Nhà Văn Hà Nội, 2011). Tập thơ gồm 24 bài cũ và 14 bài mới, được in song ngữ Việt - Hung với 2000 bản. Lễ ra mắt tập thơ được tổ chức trang trọng trong khuôn khổ Liên hoan sách Quốc tế Budapest, với sự có mặt của nhà thơ Trương Đăng Dung và hai dịch giả: Giáp Văn Chung và Háy János cùng đông đảo bạn đọc Hungary. Tập thơ đã được giới chuyên môn và bạn đọc đón nhận nồng nhiệt. Ngay trong lễ ra mắt, toàn bộ số sách mang đến đã được bán hết.

  • HỒ THẾ HÀ

    Hữu Thỉnh là nhà thơ xuất sắc trong thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước. Cuộc sống và trang thơ của ông đã có rất nhiều công trình nghiên cứu và giải mã ở tất cả các cấp độ thi pháp với giá trị độc sáng riêng của chúng. Người đến sau khó có những phát hiện gì thêm từ thế giới chỉnh thể nghệ thuật ấy.

  • NGUYỄN THÀNH NHÂN

    Khi nhắm mắt trong phút chốc, xung quanh tôi thoắt nhiên rực rỡ nắng, tôi chỉ là một đứa trẻ nhỏ, chỉ mới mười ba tuổi đầu và đang cố gắng đuổi theo người con gái ấy.” 

  • PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU
    Nhân 17 năm ngày mất nhà văn Nguyễn Văn Bổng (11/7/2001 - 11/7/2018)    

    Nói đến Nguyễn Văn Bổng trước hết chúng ta nói đến một nhà văn xứ Quảng anh hùng, giàu bản sắc, một nhà văn hàng đầu của văn xuôi Việt Nam hiện đại, một bút lực dồi dào, với những tác phẩm tràn đầy nhựa sống, là nói đến một khối lượng lớn những tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký có giá trị… (Nhà thơ Hữu Thỉnh).

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Trần Vàng Sao là một người yêu nước. Điều này dễ dàng khẳng định cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nghĩa trực tiếp lẫn gián tiếp, không chỉ bởi lẽ anh đã chọn bút danh là Trần Vàng Sao, là tác giả của Bài thơ của một người yêu nước mình, mà còn chủ yếu là ở thế giới hình tượng nghệ thuật và thi trình của anh gắn liền với vận mệnh của đất nước và số phận của nhân dân. 

  • NGUYỄN DƯ

    Đang loay hoay thu dọn lại tủ sách bỗng thấy cuốn Dã sử bổ di. Tự dưng muốn đọc lại. Nhẩn nha đọc… từ đầu đến cuối!

  • NGUYỄN VĂN SƯỚNG

    Đi như là ở lại(*) là tập bút ký viết về những vùng đất Lê Vũ Trường Giang đã đi qua trong hành trình tuổi trẻ. Tác phẩm dày gần 300 trang, gồm 15 bút ký.

  • TRUNG TRUNG ĐỈNH

    Khóa học đầu tiên của trường viết văn Nguyễn Du do ý tưởng của ai tôi không rõ lắm. Nhưng quả thật, sau 1975, lứa chúng tôi sàn sàn tuổi “băm”, cả dân sự lẫn lính trận đều vừa từ trong rừng ra, đa số học hết cấp III, có người chưa, có người đang học đại học gì đó.

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG

    Tuổi thơ bao giờ cũng chiếm một phần tất yếu trong ký ức chúng ta. Sống cùng tuổi thơ là sống bằng mộng, bằng mơ, bằng cái hồn nhiên, cái thiện ban sơ, thiên đường đuổi bắt.

  • LIỄU TRẦN

    Lưu lạc đến tay một tập viết nhỏ “Thiền sư ở đâu”, tác giả Bùi Long. Chợt nghĩ, thời này là thời nào còn viết kiểu này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ

    Có thể gọi đây là cuốn hồi ký đặc biệt vì nhiều lẽ. Trước hết, vì tác giả hình như chưa viết báo, viết văn bao giờ. Bà là PGS.TS chuyên ngành Dược, nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh, nhưng lại có “thế mạnh” hơn nhiều cây bút khác - Cao Bảo Vân là con gái của tướng Cao Văn Khánh (1916 - 1980).

  • HOÀNG THỤY ANH    

    Đỗ Thượng Thế là giáo viên dạy mỹ thuật. Ấy thế mà, nhắc đến anh, người ta luôn nghĩ đến nhà thơ trẻ. Cũng đúng thôi, nhìn vào hoạt động thơ ca và các giải thưởng của anh mới thấy cuộc chơi chữ đã lấn át hoàn toàn sân họa.

  • DO YÊN     

    Trong không khí kỷ niệm 72 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, nhà văn - cựu chiến binh Nguyễn Quang Hà đã trình làng tiểu thuyết Nhật ký Đông Sơn, góp phần làm phong phú các tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân.

  • TRẦN HOÀNG

    (Đọc "Giai thoại Nguyễn Kinh"
    Triều Nguyên sưu tầm - biên soạn. Sở Văn hóa Thông tin Thừa Thiên 1990)

  • LÊ KHAI

    "Tuổi mười ba" tập thơ của Lê Thị Mây (Nhà xuất bản Thuận Hóa 1990) gợi người đọc nhận ra tính cách của nhà thơ.

  • NGUYÊN HƯƠNG    

    1. Có nhiều cách để người ta nói về Tết. Đó là một dịp để con người nghỉ ngơi, gặp gỡ, hàn huyên, và dù có được chờ đợi hay không thì Tết vẫn tới.

  • NGUYỄN VĂN CƯƠNG

    Thọ Xuân Vương Miên Định (1810 - 1886), tự là Minh Tỉnh, hiệu là Đông Trì, là con trai thứ ba của vua Minh Mạng và bà Gia phi Phạm Thị Tuyết.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BA   

    Mùa Xuân là một chủ đề được thi hào Nguyễn Du nhắc đến khá nhiều trong thơ chữ Hán của cụ. Lạ thay đó là những mùa xuân tha hương buồn bã đến chết người.

  • ĐỖ HẢI NINH

    Trong công trình Ba thế hệ trí thức người Việt (1862 - 1954), trên cơ sở nghiên cứu về trí thức người Việt từ phương diện xã hội học lịch sử, GS. Trịnh Văn Thảo xếp Nguyễn Vỹ vào thế hệ thứ 3 (thế hệ 1925) trong số 222 nhân vật thuộc ba thế hệ trí thức Việt Nam (1862, 1907 và 1925)(1).