Đoản khúc Sông Hương: Hai mươi lăm năm phê bình và đối thoại (1)

10:12 16/07/2008
TRẦN HUYỀN SÂMNgười ta nói “Phê bình là bà đỡ cho tác phẩm”, nhưng người ta cũng nói: “Nhà phê bình là con chó ăn theo nhà văn”.

Dù nhìn nhận từ góc độ nào, phê bình vẫn nằm trong hệ hình của khoa nghiên cứu văn học, là khâu cuối cùng hoàn tất quá trình văn học. Với chức năng luận giải, thẩm định và phán đoán “những bí ẩn” của các hiện tượng văn học, phê bình tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học, trên hai phương diện cơ bản: sáng tạo và tiếp nhận. Chính vậy mà nhà văn Victor Hugo, mặc dù rất “cay cú” và đau đớn, bởi nhà phê bình Seinte-Beuve đã “cuỗm” mất trái tim của vợ mình, nhưng ông vẫn không thể không thừa nhận vị trí đặc biệt của Seinte-Beuve đối với Nhóm Tao đàn(2) và văn học Pháp thế kỷ XIX.
Sứ mệnh của phê bình, đó là góp phần: thúc đẩy nhanh một thứ văn chương “lẽ ra đã chết, mà không chịu chết”. Điều mà chúng ta quen gọi một cách triết học là: mỹ học của sự vận động.
Tính chất vừa khoa học, vừa nghệ thuật, khiến cho phê bình trở thành một lĩnh vực nhạy cảm nhất trong khoa nghiên cứu văn học. Trí tuệ và tỉnh táo, đối mặt và cọ xát, nhưng nhà phê bình cũng là nghệ sĩ khi họ đắm chìm vào “những khoái cảm của văn bản” (R. Barthes). Phê bình, vì vậy là một nghề cao cấphiểm nguy. Họ “đánh đổi” bản thân mình cho vận mệnh của một hiện tượng, một khuynh hướng, một nền văn học. Và tôi nghĩ, một nền văn học hiện đại, được xem là tiến bộ, đó chính là sự “hưng thịnh” của phê bình, chứ không chỉ lấy sáng tác làm tiêu chí đánh giá. Không phải ngẫu nhiên, mà thế kỷ XX, người ta đã mệnh danh là thế kỷ của phê bình văn học.
1. Đoản khúc hai mươi lăm năm của Sông Hương...
Một phần tư thế kỷ qua, song hành với sáng tác, Lý luận - phê bình đóng một vai trò rất quan trọng, để Sông Hương có thể hoàn tất sứ mệnh lịch sử của mình, trước những yêu cầu bức thiết của đời sống văn học. Dù có lúc thăng - trầm, hay thịnh - suy, Sông Hương vẫn chứng tỏ được “bản thể” của mình, trước những chuyển biến mạnh mẽ của văn học trong nước và trước “Nền văn chương đang lâm nguy” của nhân loại. Sông Hương đã vượt qua giới hạn của một tạp chí có tính chất đường biên “vùng”, để hiện diện trước công chúng bạn đọc - với tư cách là Sông Hương.
Đặt trong tiến trình văn học Việt Nam, Sông Hương đã có những dấu ấn đặc thù gì? Sông Hương đã nói gì với Sông Hương, và Sông Hương đã nói gì với bạn đọc trong nước? Từ bình diện của lý luận - phê bình, Sông Hương đã thực sự là một tờ báo hàm chứa hai chuẩn mực: khoa học và nghệ thuật?
Đó là những vấn đề cần đặt ra, khi chúng ta có dịp nhìn lại một chặng đường hai mươi lăm năm đã qua của Sông Hương.
Xét từ góc độ lý luận - phê bình văn học, có thể khái quát những đặc điểm sau về Sông Hương trong suốt hai mươi lăm năm qua. Tất nhiên, những phác nét nào cũng bỏ qua những “góc khuất” quan trọng và thú vị.
Thứ nhất, Sông Hương đã cho thấy tính tự trị của nó, bằng chính bản sắc văn hóa-văn học, nơi mảnh đất nảy sinh và nuôi dưỡng nó. Các nhà lý luận- phê bình đã phản ánh khá trung thực và nhạy cảm về dòng chảy của văn học Thừa Thiên - Huế với những khoảnh khắc lịch sử khác nhau và những biến động đa dạng của đời sống xã hội. Dù cho, đã có những khuất tất, những “kìm hãm” phi lý, ngoài sự mong đợi, nhưng về cơ bản, có thể khẳng định như vậy.
Có thể nói, diện mạo, đặc điểm và các chân dung văn học tiêu biểu của Huế đã được khái quát, đánh giá, thẩm định một cách khá xác đáng. Qua “kênh” phê bình, người đọc cảm nhận được chiều sâu về văn hóa - lịch sử tàng ẩn trong các tác phẩm văn học. Từ những chân dung văn học truyền thống như: Tùng Thiện Vương - Miên Thẩm, Đặng Huy Trứ, Ưng Bình Thúc Dạ Thị, Nguyễn Khoa Vy,... đến các tác gia hiện đại và đương đại như: Thanh Tịnh, Tố Hữu, Nguyễn Khoa Như Ý, Lâm Thị Mỹ Dạ, Trần Thùy Mai, Tô Nhuận Vỹ, Hoàng Phủ Ngọc Tường... đều hiện diện một cách sinh động trên Sông Hương, thông qua những tiếng nói khác nhau của phê bình văn học.
Sông Hương đã giúp người đọc nắm bắt được tính Chủ âm (la dominante - chữ dùng của Jakobson) của bản sắc Huế thống ngự trong sáng tác văn học. Trong một xu thế đa tạp của đời sống văn học hiện nay, tôi nghĩ, đây là yếu tố quan trọng, có tính quyết định để Sông Hương tự tin tồn tại và phát triển. Mất đi tính Chủ âm về bản sắc Huế, Sông Hương sẽ không còn là Sông Hương, hay nói đúng hơn, nó sẽ chìm khuất vào vô số những tờ báo, trên thị trường thông tin.
Thứ hai, Sông Hương trở thành một dòng hợp lưu của lý luận - phê bình - đối thoại trong cả nước, mà các tạp chí địa phương khác, e rằng, khó có thể sánh được. Có chủ quan không, khi tôi khẳng định như vậy? Kỳ thực, Sông Hương đã thu hút được nhiều nhà nghiên cứu, lý luận và phê bình có uy tín.
Về lý luận văn học: Sông Hương dù chưa phải là “nơi chốn” để bàn luận học thuật, một cách có hệ thống như các tạp chí chuyên ngành, nhưng sự có mặt khá đều đặn của các nhà lý luận, khiến cho Sông Hương có một tính chất trí tuệ - khoa học, rất thú vị. Và, nó có thể đáp ứng được phần nào, nhu cầu bạn đọc, đặc biệt là giới “siêu độc giả”.            
Từ số đầu tiên vào 6 - 1983 cho đến nay, Sông Hương đều có sự hiện diện của các nhà lý luận - nghiên cứu có tên tuổi, như: Nguyễn Văn Hạnh, Lê Ngọc Trà, Phương Lựu, Trần Đình Sử, Phan Ngọc, Phong Lê, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Văn Dân, Trương Đăng Dung... Nhờ vậy, những vấn đề quan trọng của khoa nghiên cứu văn học, như: Thể loại văn học, Tiếp nhận văn học, So sánh văn học,... về cơ bản, đã được Sông Hương đề cập đến. Có thể kể đến một số bài nghiên cứu có dấu ấn, trên Sông Hương: Lý thuyết tiếp nhận và phê bình văn học, Số 6, 1999, của Trần Đình Sử, Nghiên cứu văn học so sánh ở Việt nam, của Nguyễn Văn Dân, số 5, 1998, Những đặc điểm của hệ thống lý luận văn học Mac xit thế kỷ XX, của Trương Đăng Dung, số 1, 2003...
Về phê bình văn học: Sông Hương có một quan điểm tự do và mới mẻ trong phê bình và đối thoại. Dù cách nhìn của các Tổng biên tập, qua các “triều đại” có khác nhau (từ Nguyễn Khoa Điềm, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khắc Phê đến Nguyễn Quang Hà, Hồng Nhu, Nguyễn Khắc Thạch), nhưng họ luôn tìm cách, đưa Sông Hương tham dự vào các tầm đón nhận văn học trái chiều của công chúng bạn đọc. Những hiện tượng có số phận lịch sử đặc biệt, có sự đối lập, xung khắc trong tiếp nhận, đều được Sông Hương quan tâm. Chẳng hạn như: Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Phạm Thị Hoài, Đỗ Hoàng Diệu, Vi Thùy Linh,... và kể cả những tác giả thuộc vào “nhân văn giai phẩm”.
Sông Hương đã dám đương đầu với những thách thức của dư luận công chúng bạn đọc. Sự có mặt của các nhà phê bình như: Trần Mạnh Hảo, Phạm Xuân Nguyên, Đỗ Lai Thúy... đã chứng tỏ quan điểm nghệ thuật và bản lĩnh của Sông Hương. Đặc biệt, những bài phê bình gần đây của tác giả Đỗ Lai Thúy về phân tâm học, về tình dục trong thơ Xuân Diệu, đã mang lại cho Sông Hương một sinh khí mới.
 Với tinh thần trên, Sông Hương đã đưa đến cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều về văn học và hiện thực cuộc sống. Bi kịch con người qua các tình huống của lịch sử dân tộc (tình yêu và chiến tranh, tự do và thể chế, bổn phận và khoái lạc...) trong các sáng tác văn học, nhìn chung, đều được Sông Hương đề cập và giải mã, thông qua kênh phê bình - đối thoại.
Thứ ba, Sông Hương có một “Cứa sổ nhìn ra thế giới” rất thú vị. Từ “điểm nhìn” này, Sông Hương đã thu nhận được nhiều kiến thức lý luận -phê bình văn học mới mẻ, nhạy cảm trên thế giới. Các lý thuyết về Ký hiệu học, Cấu trúc học, Tự sự học, Mỹ học, và một số vấn đề về thể loại văn học đều xuất hiện trên Sông Hương.
Để có được cánh cửa này, trước hết, phải kể đến công lao của PGS. Bửu Nam, người đã khởi xướng và dành nhiều tâm huyết cho Sông Hương. Tất nhiên, quyết định cho sự tồn tại đầy sức hấp dẫn và lý thú của nó, đó chính là sự tham gia của các dịch giả, tiêu biểu: Bửu Ý, Bửu Nam, Đỗ Lai Thúy, Trương Đăng Dung, Đặng Thị Hạnh, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm...
Khi mà văn học dân tộc đang “gồng mình” để thoát khỏi sự tù đọng và bế tắc, nhằm tiến đến hội nhập văn hóa - văn học thế giới - một cách tự tin, thì “Cửa sổ nhìn ra thế giới” không chỉ cần thiết với Sông Hương”, mà thực sự quan trọng đối với văn học Việt nam hiện nay. Hy vọng rằng, người cầm chịch mới Hồ Đăng Thanh Ngọc sẽ đặc biệt lưu tâm cho Cánh cửa này...
 Thứ tư, phong cách phê bình nghiệp dư, trên Sông Hương, đó cũng là một đặc điểm thú vị. Ngoài sự quyến rũ của khoái cảm văn bản, đã đi vào họ một cách tự nhiên do bản năng sáng tạo, thì tính lý luận - khoa học, như một yêu cầu tất yếu của nghiên cứu - phê bình, đã được bộc lộ sắc sảo qua các cây bút phê bình nghiệp dư. Đọc lại Sông Hương một cách có hệ thống, tôi rất ngạc nhiên và lấy làm thú vị, khi nhận thấy rằng, không ít bài phê bình của các nhà sáng, còn có sức thuyết phục hơn một số nhà phê bình chuyên nghiệp. Không cần đến sự biện minh của tôi, bạn đọc cứ tìm đến phong cách phê bình của giới nghệ sĩ này trên Sông Hương, và chắc chắn, nhận định của tôi, sẽ không bị chối từ: Thanh Thảo, Hoàng Vũ Thuật, Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Khắc Thạch, Nguyễn Trọng Tạo, Ngô Minh, Mai Văn Hoan...
Trong đó, nhà văn Nguyễn Khắc Phê, vốn được xem là “nhà tiểu thuyết hiền lành ngầm”, không chỉ trở thành người phát ngôn đương thời, mà còn sắp tiến tới đoạt danh hiệu của nhà báo, nhà phê bình chuyên nghiệp. Hàng loạt bài phê bình của Nguyễn Khắc Phê trên Sông Hương nói riêng và các báo khác nói chung, đã chứng tỏ bút lực và bản lĩnh của ông. Thì ra, nhà tiểu thuyết thuần nho xứ đồ Nghệ, cựu Tổng Biên tập Sông Hương, về già mới phát lộ hết tài năng đa diện của con nhà nòi - Nguyễn Khắc...
Cũng vậy, bài phê bình Cảm nhận thơ hôm nay của Nguyễn Khắc Thạch và Tản mạn về thơ của Thanh Thảo đã có những kiến giải sắc sảo về bản chất của thơ ca. Nguyễn Khắc Thạch xem phẩm chất của tu sĩ là Đức Tin, còn phẩm chất của thi sĩ là sự hoài nghi” (xin xem số 11-1994). Thanh Thảo đã nhìn thơ, từ một không gian rỗng, và tìm nghĩa từ những khoảng trống vô nghĩa (xin xem số 7-1998).
Và cuối cùng, phong cách phê bình mang tính chất hàn lâm và mô phạm của các nhà nghiên cứu - giảng dạy ở hai trường đại học kề cận, góp phần làm cho Sông Hương mang một "màu sắc " của phê bình trong thế giới học đường. Có thể kể đến: Hồ Thế Hà, Phạm Phú Phong, Hà Văn Lưỡng, Nguyễn Xớn, Nguyễn Hồng Dũng,... (ĐHKH Huế); Trần Đại Vinh, Trần Hoàng, Bích Hải, Bửu Nam, Lê Thị Hường, Trần Huyền Sâm... (ĐHSP Huế).
Trong số kể trên, có một tác giả rất ít xuất hiện trên Sông Hương, nhưng lại khẳng định uy tín bằng một bài phê bình rất đáng lưu tâm: Nguyễn Xớn. Tôi đọc lại nhiều lần bài: “Lý luận văn học trước thử thách của thực tiễn sáng tạo”, cách đây hơn mười năm trên Sông Hương và không khỏi ngạc nhiên và suy tư trước vấn đề lý luận văn học mà tác giả này đã đặt ra. Ngắn gọn, sắc sảo và nhất là có chủ kiến táo bạo, bài viết chưa đầy bốn trang, đã đề cập được những vấn đề quan trọng và bức thiết của lý luận Việt nam: “Nhìn tổng thể, hình như lâu nay, các lý thuyết gia văn chương nước ta đã bỏ bao nhiêu công sức để đan tấm lưới bằng thuật ngữ, các khái niệm, nhằm cố bắt cho được “tính chân thật của cuộc sống”. Nói rõ ra là hệ thống lý thuyết văn chương lâu nay, là hệ thống lấy cái chưa biết để giải thích cái chưa biết(xin xem số 1-1995).
Tất nhiên, nhân định trên chưa phải là hoàn toàn chân xác về thành tựu lý luận Việt Nam, nhất là những thập niên gần đây, nhưng nó cho chúng ta một sự tự ý thức tối thiểu của người trí thức làm công việc nghiên cứu và giảng dạy lý luận văn học. Chúng ta nhận ra: cái chưa biết, nhưng vẫn chấp nhận cái chưa biết đó, cũng có nghĩa là chúng ta chấp nhận sự giả dối trong khoa học? Câu hỏi này đã chạm đến nhiều vấn đề sâu xa trong học thuật, khiến chúng ta không thể không suy tư...
Tóm lại, nhìn từ phương diện lý luận - phê bình văn học, hai mươi lăm năm qua, Sông Hương - với một bản sắc đặc thù, đã góp phần phản ánh qui luật vận động đa diện và phức hợp của văn học Việt nam, trong một xu thế đầy thách thức của văn học thế giới.
Qua Sông Hương, người đọc có thể nhận thấy phần nào, sự đổi mới trong tư duy nghiên cứu - phê bình và sáng tác văn học. Văn học Việt nam đã và đang đi từ phản ánh hiện thực đến lý giải, nghiền ngẫm hiện thực, từ chấp nhận hiện thực, đến chỗ chống lại sự đồng hóa của hiện thực, từ cái dĩ nhiên, đến cái khả nhiên. Trên cơ sở đó, phê bình đang đi vào chiều sâu cấu trúc nhân cách của con người cá thể; cố gắng lý giải tính hai mặt, cũng như sự hệ lụy của chúng được thể hiện trong các sáng tác văn học. Đó là các phạm trù: giữa cái biết tới và cái chưa biết tới, giữa hữu thức và vô thức, giữa con người bản năng - tự nhiên và CON NGƯỜI viết hoa.
Tất nhiên, để đạt đến: Nghệ thuật như là chính nó (l’Art pour lui-même), đó không phải là điều dễ dàng của Sông Hương cũng như văn học Việt Nam nói chung.
2. Những thách thức của Sông Hương và phê bình Việt Nam nói chung...
Ở trên là tôi đã “nhìn” những ưu trội của Sông Hương trong hai mươi lăm năm qua. “Nhìn lại”, mới là cái nhìn đáng ngại và đáng sợ.
Nằm trong một thực trạng chung, Sông Hương không thể thoát khỏi những mặt trái, những hạn chế của văn học Việt Nam hiện nay: Tính tự phát, tính cá nhân và vụ lợi; sự can thiệp thô bạo, phi nghệ thuật của những vấn đề ngoài văn học; thiếu trình độ khoa học chuyên sâu, ảo tưởng, và tự phụ... Đó là những hạn chế nổi bật, mà tôi đã rút ra, từ những ý kiến đánh giá trong cuộc Hội thảo Lý luận - phê bình văn học Việt Nam, tại Viện Văn học, năm 2005(3).
Giới nghiên cứu - phê bình Hà Nội, lần đầu tiên, đã thẳng thắn đề cập đến thực trạng tệ hại của phê bình Việt Nam. Có thể dẫn ra ý kiến của ba phong cách phê bình tiêu biểu, có nhiều đóng góp cho phê bình Việt nam nói chung và Sông Hương nói riêng. Phạm Xuân Nguyên khái quát phê bình Việt nam trong hai chữ: Thiếu Yếu. Thiếu dân chủ và yếu lý thuyết văn học, và xem phê bình ở nước ta hiện nay như một anh mù cầm gậy (xin xem 3 - tr.1076). Còn Nguyễn Đăng Điệp thì bộc lộ sự hoài nghi, khi cho rằng, phê bình hiện nay thiếu chuẩn mực trong đánh giá các giá trị: tâng bốc nhau theo kiểu cánh hầu; thiếu dũng khí, thiếu bản lĩnh và thiếu những phát hiện cá nhân; tranh luận biến thành cãi vã (xin xem 3 - 1039). Vương Trí Nhàn thì thất vọng vì phê bình Việt Nam: đơn điệu, tẻ nhạt, thiếu sinh khí, mạnh về phong trào, thiếu tính chuyên nghiệp (xin xem 3 - 1068)...
Nhân nhìn lại Sông Hương, tôi đã đọc phê bình của sự phê bình với một trạng thái hưng phấn. Hầu hết, các nhà phê bình có tên tuổi, đội ngũ chủ chốt làm nên diện mạo phê bình Việt Nam, đều gặp nhau một điểm: nhận ra và phê phán rất mạnh mẽ những thực trạng yếu kém của phê bình Việt Nam hiện nay. Cũng chính vì lẽ đó mà tôi băn khoăn: vậy, những thực trạng đó là do đâu, nếu không phải là từ chính những nhà phê bình?
Vậy nên, tôi nghĩ: những điều mà các nhà phê bình đề cập, nên gọi là: Sự tự ý thức của phê bình. Đó là tên gọi chân thực và trúng nhất, cho những vấn đề, mà chính các nhà phê bình đã đặt ra.
Tôi không có tham vọng khái quát những vấn đề của phê bình văn học hiện nay, vì đó là một vấn đề quá lớn và quá phức tạp. Tuy nhiên, ngoài những cái thiếu mà các nhà phê bình đã nêu, tôi nghĩ, nên nhấn mạnh hai vấn đề cơ bản: 1. Thiếu một tri thức cơ bản về Mỹ học tính dục trong văn học; 2. Thiếu một “phép đọc mới” để khai mở giá trị của văn bản tác phẩm hậu hiện đại.
Một hiện tượng văn học gây ra tranh cãi, thông thường rơi vào ba trường hợp sau, hoặc là cả ba: a.Tác phẩm đó làm thay đổi đột ngột quan điểm về các thang giá trị cuộc sống, b. Đề cập đến vấn đề tình dục, c. Gây “sốc” bởi những thủ pháp nghệ thuật tân kỳ. Chỉ lướt qua một tác phẩm tiêu biểu, điều tôi vừa nêu sẽ được minh định: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Trăm năm cô đơn (M.Marquez), Tiếng chim hót trong bụi mận gai (C.M.Cullough), Người Tình (M.Duras), Buồn ơi chào mi (F.Sagan), Hạt cơ bản (Houellbecq), Tình ơi là tình (Jelinek), Điên cuồng như Vệ Tuệ (Vệ Tuệ)...
Nếu câu chuyện trung tâm của văn học là con người, thì tôi nghĩ, một trong những điều quan trọng nhất, đó là câu chuyện tính dục. Liệu một nhà phê bình có thể thẩm định được giá trị tác phẩm, khi anh ta không hiểu “Mỹ học tính dục trong văn học” là gì?
Một điều mà M. Duras, tác giả “Người tình” (L’Amant) lo sợ nhất, đấy là, bà sợ nhà đạo diễn dựng phim, các nhà phê bình không hiểu hết được giá trị thẩm mỹ về vấn đề tính dục mà bà thể hiện trong tác phẩm. Có lẽ, đó cũng là sự lo ngại của những nhà tiểu thuyết chân chính, khi họ viết về thế giới tính dục.
Khi dục tínhnhân tính, thì vấn đề này cần phải được các nhà phê bình coi trọng và tôn trọng. Phải chăng, Augustin trở nên cuốn hút, là bởi vì, trước lúc ông bàn đến Kinh thánh, ông đã từng bàn nhiều đến dục tính?
Vấn đề mỹ học tính dục
hệ lụy đến cả một hệ thống các phạm trù thẩm mỹ ở nhiều lĩnh vực khác nhau, thuộc khoa học xã hội nhân văn. Chúng ta chưa dựa trên một chuẩn mực giá trị, một nền tảng lý thuyết nào để đánh giá một tác phẩm có giá trị nhân bản đích thực, hay là sex đồi trụy? Dẫn đến, những phán xét có tính chất tùy hứng, theo sự phỉ báng quá trớn hoặc khen ngợi quá lời, biến vấn đề tính dục trong văn học, một vấn đề nghiêm túc, trở thành những câu chuyện mua vui cho những kẻ hiếu kỳ, hơn là một tác phẩm nghệ thuật.
Tôi nghĩ, nhà phê bình Đỗ Lai Thúy là người trong số ít ở Việt Nam, đã nghiên cứu một cách nghiêm túc vấn đề này. Dưới góc độ mỹ học tính dục, tác giả đã thể nghiệm thành công hai hiện tượng văn học tiêu biểu: Hồ Xuân Hương và Xuân Diệu.
 Phép đọc mới, hay là một qui ước đọc (Le concept de pacte de lecture) là một yêu cầu đối với nhà phê bình văn học khi nghiên cứu các tác phẩm viết theo khuynh hướng hậu hiện đại. Mỗi hiện tượng văn học là một mã riêng. Susan Adams khi nghiên cứu về J. Joyce, ông đã ví tác phẩm văn học như một củ hành, và người phê bình cần có một kỹ thuật bóc củ hành, mới có thể khai mở tác phẩm. Khám phá tác phẩm là một hình thức bóc các lớp vỏ hành, để “vén ra” những tầng nghĩa ẩn chìm trong văn bản. Khi nhà phê bình trào ra nước mắt, đấy là lúc anh ta chiêm nghiệm được chân lý nghệ thuật, thông qua các lớp vỏ hành.
Không nắm được “mã” của văn học hậu hiện đại (Phép giản lược tối thiểu, ngụ ngôn đen, kỹ thuật xử lý yếu tố tính dục, hệ thống ngôn ngữ thân xác, hệ thống chuyển hóa của điểm nhìn trần thuật...), nhà phê bình chỉ biết cách “vờn” ngoài tác phẩm. Đó là lý do, có thể giải thích vì sao, các tác phẩm của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Bình Phương, Đoàn Minh Phương và các giải Nobel văn học trong những năm gần đây, không được các nhà phê bình Việt Nam thật sự chú trọng...
Đặt ra vấn đề trên, để thấy rằng, Sông Hương nói riêng, và văn học Việt Nam nói chung, đang đặt các nhà phê bình đứng trước những thách thức lớn lao. Vị trí của người làm công việc: phê bình của sự phê bình trên Sông Hương, liệu đã đáp ứng được nhu cầu của đời sống văn học hiện nay?
4. Cho một tương lai của Sông Hương...
Sông Hương đi về phía tương lai bằng cách, trở lại tìm dấu tích của bước chân công chúa Huyền Trân... Bản sắc của Sông Hương, niềm kiêu hãnh của Sông Hương, chính là ở đó. Và chính cái Chủ âm của bản sắc này, đã thống ngự và cám dỗ bạn đọc.
Nói, nhìn lại hai mươi lăm năm,… nhưng thực ra, Sông Hương đã từng có một cội nguồn lịch sử dài lâu hơn thế, vì nó vốn là tiền thân của một tờ báo nổi tiếng trước 1945: báo Sông Hương. Báo Sông Hương - một thời vang bóng của bao nhiêu thi sĩ, nhà phê bình nổi tiếng đã hội tụ về đất Huế... Cội nguồn truyền thống này, cũng là một niềm tự hào, để Sông Hương đi tiếp cuộc hành trình về phía tương lai...
 Một lợi thế lớn nhất của Sông Hương, đó là sự yêu mến, gắn bó đầy tâm huyết của đông đảo bạn đọc. Người ta yêu mến Sông Hương không chỉ thuần túy như một tờ báo văn học, mà đôi lúc, vì nó hiện diện một điều gì đó khó lý giải. Một điều gì, mà khiến cho dịch giả Bửu Ý phải đặt ra câu hỏi, Huế, anh là ai? (xin xem số 10 - 2004)...
Liệu, rồi đây, Sông Hương có đáp ứng được sự hoài vọng của bạn đọc?
Một tạp chí là gì? Có thể mượn lời của Frédéric Bandré - chủ bút của tờ tạp chí Ligne de risque, để nêu lên chủ đích của Sông Hương: “Một tạp chí không phải là một điều thiết yếu - một cứu cánh tự bản thân. Tạp chí phải có tác dụng với một dự phóng nhất định. Nó phải thách thức với tương lai, đồng thời phải có ý nghĩa cho hiện tại” (Cho một tương lai văn học)(4)
Sông Hương
có thể mở ra một cánh cửa lịch sử cho tương lai văn học? Đó thực sự là một thách thức đối với người phụ trách Sông Hương hiện nay, cũng như những ai có tâm huyết với Sông Hương.

 
T.H.S

(nguồn: TCSH số 233 - 07 - 2008)


----------------
(1) Nhân nhìn lại hai mươi lăm năm phê bình trên Sông Hương, người viết mạn phép bàn thêm một số vấn đề...
(2) Tờ Tao Đàn do anh em V.Hugo sáng lập và có sự cộng tác của nhà phê bình Seinte - Beuve. Thời kỳ này, Seinte - Beuve yêu say đắm vợ V.Hugo, và kết quả của mối tình là sự ra đời cuốn tiểu thuyết “
Khoái lạc” - cuốn sách mà V. Hugo rất thù ghét.
(3) Nhiều tác giả, Lý luận và phê bình văn học - đổi mới và phát triển, Nxb Khoa học xã hội, 2005.
(4) Frédéric Bandré, Cho một tương lai văn học, Nxb Đà Nẵng, 2006 (Đa Huyên và Nguyễn Thanh Xuân dịch từ L’avenir de la littérature, Edition Gallimard, 2003).

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.

  • ĐỖ LAI THUÝPhê bình văn học Việt Nam, sau sự khởi nguồn của Thiếu Sơn với Phê bình và Cảo luận (1933) chia thành hai ngả. Một xuất phát từ Phê bình để trở thành lối phê bình chủ quan ấn tượng với Hoài Thanh và Thi nhân Việt Nam (1942). Lối kia bắt nguồn từ Cảo luận tạo nên phê bình khách quan khoa học với Vũ Ngọc Phan của Nhà văn hiện đại (1942), Trần Thanh Mai của Hàn Mặc Tử (1941), Trương Tửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều (1942), Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ (1945). Sự phân chia này, dĩ nhiên, không phải là hành chính, mà là khoa học, tức sự phân giới dựa trên những yếu tố chủ đạo, nên không phải là không thể vượt biên. Bởi, mọi biên giới đều mơ hồ hơn ta tưởng, nhất là ở khoa học văn chương.

  • LTS: Marcel Reich-Ranicki, sinh năm 1920, người ở Đức được mệnh danh là "Giáo hoàng văn học", là nhà phê bình văn học đương đại quan trọng nhất của CHLB Đức. "Một lời biện hộ cho thơ" là bài thuyết trình đọc vào ngày 30.11.1980 nhân dịp ra mắt Tập 5 của "Tuyển thơ Frankfurt" trong khuôn khổ chuyên mục thơ của nhật báo "Frankfurter Allgemeine Zeitung" (FAZ) mà tác giả là chủ biên phần văn học từ 1973 đến 1988.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu bài "Một lời biện hộ cho thơ" của ông sau đây do dịch giả Trương Hồng Quang thực hiện.