Trong những nhà phê bình văn học theo khuynh hướng thi pháp học ở Việt Nam, Đỗ Lai Thúy là một gương mặt tiêu biểu. Ông đã nổi lên như một nhà nghiên cứu với nhiệt tình cách tân và định hình được phong cách riêng. Đỗ Lai Thúy gây được tiếng vang với Con mắt thơ (1992), một tác phẩm phê bình thơ mới. Nhìn từ con đường tiếp cận, thành công vang dội của Hoài Thanh trước đây trong phê bình thơ mới, theo một số nhà nghiên cứu, gắn liền với phương pháp phê bình ấn tượng. Sau Hoài Thanh có thể kể tới Phan Cự Đệ với cách tiếp cận xã hội học trong công trình Phong trào Thơ mới. Đỗ Lai Thúy lại lựa chọn hướng tiếp cận thi pháp học và nó đã thực sự mang lại những phát hiện mới. Nhiệm vụ cơ bản của thi pháp học đấy chính là “tìm hiểu mô hình thế giới của nhà văn và của thời đại, lô gic của hình thức nghệ thuật, tức là căn nguyên của những cách thể hiện nay hay khác”(1). Vì thế, ngay từ đầu, Đỗ Lai Thuý trình bày cái nhìn thế giới của cá nhân cá thể trong đô thị hiện đại, cụ thể là quan niệm về con người, quan niệm về thời gian, quan niệm về không gian, “những viên gạch phạm trù xây dựng lên bức tranh thế giới”. “Nó trở thành cơ sở của một triết học văn hoá cho cái nhìn nghệ thuật trong thơ mới”(5). Vì thế, cái nhìn nghệ thuật của các nhà thơ mới tất yếu sẽ mang đặc điểm chung của cái nhìn thời đại; nhưng mỗi cá nhân lại có đặc điểm riêng về tâm sinh lý và hoàn cảnh sống cho nên họ cũng có cái nhìn nghệ thuật riêng. Chính cái nhìn nghệ thuật riêng tạo nên phong cách. Nhiệm vụ của nhà phê bình là phải phát hiện ra những sự “lệch chuẩn” trong cái nhìn nghệ thuật, phát hiện ra “con mắt thơ”. Cho nên, có thể nói Con mắt thơ là một công trình nghiên cứu phong cách các nhà thơ mới bằng con đường thi pháp học. Nhưng làm thế nào để phát hiện được “mắt thơ”? Đỗ Lai Thúy khẳng định điểm xuất phát cho hành trình tìm kiếm mắt thơ là tác phẩm. Hay cụ thể hơn là ngôn ngữ của tác phẩm: “Mã số của thơ chỉ có thể cất giấu trong và bằng ngôn ngữ”. Công việc của nhà phê bình là phải tìm những từ chìa khoá, để giải mã thơ. Nhưng nếu mã số thơ không nằm ở từ chìa khoá mà tản mác khắp nơi thì nhà phê bình phải dùng trực giác nghệ thuật để định hướng, thăm dò, phải phân tích, tháo giở tác phẩm rồi sau đó tổng hợp, “tái cấu trúc” theo sự mách bảo của trực giác. Đỗ Lai Thuý đã thực thi phương pháp nói trên như thế nào. Ông cho rằng mô hình về thế giới của các nhà thơ mới dựa vào sự lựa chọn của họ. Đó là sự lựa chọn con đường giải thoát cô đơn, tình yêu và tuyệt vọng, những khắc khoải siêu hình…Trên cơ sở đó, Đỗ Lai Thuý phát hiện chiều sâu của cái nhìn nghệ thuật của các nhà thơ mới, phát hiện quan niệm về con người của thơ mới ở chiều kích tâm linh, cũng như dựng lại cấu trúc cảm hứng của các thi sĩ. Chẳng hạn, với Xuân Diệu, ông cho rằng thơ Xuân Diệu là nỗi ám ảnh thời gian. Điều này thoạt nhìn chẳng có gì là mới, trong Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã viết “Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình”(4). Tuy nhiên, Đỗ Lai Thúy lại nhìn thấy thơ Xuân Diệu là khát vọng chiến thắng thời gian. Cũng có nghĩa là con đường giải thoát cô đơn của Xuân Diệu là thông qua thời gian. Thi nhân tìm mọi cách để chiến thắng thời gian. Trước hết là chạy đua bằng tốc độ, thi nhân luôn ao ước có một cặp hài vạn dặm; sau nữa là lối sống đón trước để bắt kịp thời gian: Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân. Nhưng chiến thắng thời gian bằng tốc độ không đủ, thi nhân phải chiến thắng bằng cường độ sống nữa. Thơ Xuân Diệu là sự khát thèm, vồ vập với cuộc sống; thơ thi nhân đầy động tác thể hiện sự chiếm hữu thế giới. Tình yêu, đối với Xuân Diệu cũng là con đường chiến thắng thời gian, bởi tình yêu là sự sống, sự sống bất tử, sự sống chẳng bao giờ chán nản. Cuối cùng là sứ mệnh của nghệ thuật, “một khi nắm được nghệ thuật, nghệ sĩ có thể tìm lại thời gian đã mất”. Viết về thơ mới, Đỗ Lai Thúy tập trung khám phá những hiện tượng phức tạp, những nhà thơ mà theo ông ngả về hướng tượng trưng, siêu thực. Ông viết rất hay về thơ Hàn Mặc Tử, cho rằng mô hình sáng tác của thơ Hàn Mặc Tử là: tính trữ tình + tư duy tôn giáo + cái tôi cá nhân hiện đại. Đỗ Lai Thúy khẳng định thơ Lý- Trần cũng là sự kết hợp giữa tính trữ tình và tư duy tôn giáo nhưng lại thiếu chất cá nhân hiện đại nên không tạo nên hiện tượng đột biến như thơ Hàn Mặc Tử. Ngoài ra, Đỗ Lai Thúy lại phát hiện điểm độc đáo của nhà thơ trên cái mô hình chung đó. Chẳng hạn, tính trữ tình trong thơ Hàn Mặc Tử có những đểm đặc biệt như tính gợi cảm, siêu thực và những yếu tố nhục cảm. Hay tư duy tôn giáo, vốn mang lại cho sáng tác tầm phổ biến nhân loại, nhưng tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử còn đạt đến một tinh thần tôn giáo vũ trụ. Ông phát hiện con đường giải thoát đau thương của Hàn Mặc Tử chính là bằng giải pháp của đau thương. “Với tôn giáo đau thương là một phương tiện cứu chuộc tỗi lỗi. Còn với Hàn Mặc Tử, nhà thơ, giải phẫu đau thương là hành vi sáng tạo”(5). Chúng được thể hiện qua những biểu tượng đầy ám ảnh trong thơ Hàn: trăng, hồn, máu. Như thế, những lựa chọn để thoát khỏi cô đơn của các thi sĩ thơ mới tựa như là những giả thuyết khoa học; phần “mã thám” vào văn bản, tìm những từ khoá, những biểu tượng ám ảnh trở thành công việc chính để chứng minh cho giả thiết kia. Đấy là con đường để Đỗ Lai Thuý xây dựng mô hình nghiên cứu của mình. Sau Con mắt thơ, Đỗ Lai Thuý tiếp tục vận dụng phương pháp mới giải thích hiện tượng thơ Hồ Xuân Hương, giải quyết “câu đố” do Hồ Xuân Hương đặt ra, đấy là sự có mặt bất khả kháng của cái mà người ta thường gọi là dâm, là tục trong thơ bà. “ Thứ câu đố do con quái Sphinx nghĩ ra để nát những ai muốn đi vào đền thơ Hồ Xuân Hương”(6). Đỗ Lai Thuý đã tiếp cận thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực. Cách tiếp cân này, theo tác giả, một mặt khắc phục được những hạn chế của những cách tiếp cận trước, đồng thời không phủ nhận, loại bỏ các phương pháp đã có mà chỉ biến chúng thành trường hợp cụ thể, đúng trong việc giải quyết từng bình diện cụ thể của thơ Hồ Xuân Hương. Trước Đỗ Lai Thuý đã có một số nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề này nhưng “các bài viết chỉ mới nhắc đến một vài khía cạnh của tín ngưỡng phồn thực, hoặc liên hệ một số cạnh khía bề ngoài của thơ Hồ Xuân Hương. Chưa ai đặt vấn đề một cách hệ thống nghiên cứu vấn đề này”(6). Đỗ Lai Thúy đặt thơ Hồ Xuân Hương trong đường dây lịch sử : Tín ngưỡng phồn thực - tục thờ cúng phồn thực - lễ hội phồn thực- văn hóa dâm tục - thơ Hồ Xuân Hương. Ông tìm ra đường dây liên hệ giữa biểu tượng về âm vật, dương vật, hoạt động tính giao trong thơ Hồ Xuân Hương với những biểu tượng văn hoá trong tín ngưỡng phồn thực. Thế giới quan của tín ngưỡng phồn thực, vốn không có sự đối lập giữa cái thiêng và cái tục. “Sau này, do xã hội phân từng, cái tục và cái thiêng bắt đầu tách rời khỏi nhau, mờ dần quan hệ với nhau, nhất là trong ý thức chính thống xã hội. Tuy nhiên, trong sâu thẳm vô thức, tiềm thức, người ta vẫn mong quay về với thuở thiên đường”(6). Thơ Hồ Xuân Hương chính là sự hoài niệm của thế giới phồn thực. Thơ bà có tính lấp lửng hai mặt, bởi vì nó mang nhãn quan thế giới của lễ hội phồn thực. Việc tách rời phần thanh và tục trong thơ Hồ Xuân Hương là một công việc bất khả. Phải chăng, đến đây, câu đố do Hồ Xuân Hương đặt ra đã tìm được lời giải? Đỗ Đức Hiểu nhận xét: “Tác phẩm Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực phát hiện phồn thực là nguyên lý triết học thơ Hồ Xuân Hương, vấn đề tranh cãi trong một thế kỷ nay, tôi nghĩ phương pháp giải quyết của Đỗ Lai Thuý là thuyết phục hơn cả”(2). Đỗ Lai Thuý cũng từ nhãn quan của lễ hội phồn thực để cắt nghĩa, lý giải nội dung triết lý, thẩm mỹ, sự độc đáo của tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương. Chẳng hạn, tiếng cười trong thơ Hồ Xuân Hương, đấy là tiếng cười tự do, tiếng cười giải phóng, tiếng cười hoà đồng, hoá giải thiêng tục, đưa con người trở lại nguồn cội, soi sáng ý thức con người bởi chiến thắng nỗi sợ hãi…Góc nhìn mới vừa có tác dụng giúp tác giả có những phát hiện mới mẻ về thơ Hồ Xuân Hương; mặt khác lại có thể giải thích triệt để hơn những phát hiện, khám phá, hoặc những tiên cảm của những nhà nghiên cứu, phê bình đi trước trong hành trình khám phá thơ nữ sĩ. Qua những công trình giàu sáng tạo, Đỗ Lai Thuý đã khẳng định lối đi riêng của mình trong phê bình văn học. Cũng là những nhà phê bình thi pháp học, nhưng nếu như Đỗ Đức Hiểu là nhà phê bình thiên về khám phá “mĩ học của ngôn từ”, “sự ám ảnh của âm và nghĩa” thì Đỗ Lai Thúy tập trung phát hiện cái nhìn nghệ thuật của nhà văn trong tương quan với cái nhìn thế giới của thời đại chi phối sáng tác của anh ta. Công trình Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, về cơ bản là nghiên cứu cái nhìn nghệ thuật của Hồ Xuân Hương trong tương quan với cái nhìn thế giới của lề hội phồn thực. Hơn nữa, điểm độc đáo của Đỗ Lai Thuý là ông luôn có ý thức dựng lên cấu trúc cảm hứng của nhà thơ. Không kể những công trình đã mô tả, bài viết gần đây của ông về thơ Hoàng Cầm (Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm), ông cho rằng thơ Hoàng Cầm là sự tìm về với mẹ. Trong các tác phẩm phê bình, vì thế, Đỗ Lai Thuý luôn vận dụng phân tâm học để thám hiểm vào chiều sâu trong sáng tác của các thi nhân. Nghiên cứu các biểu tượng ám ảnh của các thi sĩ thơ mới, của thơ Hồ Xuân Hương, Đỗ Lai Thuý có ý thức so sánh những biểu tượng đó với những cổ mẫu; từ đó phát hiện, khám phá, thăm dò phần vô thức trong tác phẩm. Do đó, những phát hiện của Đỗ Lai Thuý có chiều sâu. Trong bài viết về thơ Hoàng Cầm, vừa dẫn, ông còn cho rằng thơ Hoàng Cầm là sự giải toả, thăng hoa của mặc cảm Ơ đip, một nhận xét không dễ được thừa nhận. Những công trình của Đỗ Lai Thuý gần như bao giờ cũng chứa đựng những phát hiện mới, có lúc vượt ra khỏi những suy nghĩ thông thường, khiến cho ta có cảm nhận người nghiên cứu đã không tránh được sự cực đoan. Tuy nhiên, ông luôn gắn những suy nghĩ của mình với những lý thuyết khoa học, không phải là ngững suy nghĩ, gán ghép vu vơ, vô bổ. Chúng ít nhất cũng tạo nên sự khiêu khích, khiến người ta buộc phải thoát khỏi lối mòn của sự cảm thụ quen thuộc, vốn đã ăn sâu vào não trạng. Đỗ Lai Thuý quan niệm rằng nhà phê bình không chỉ khám phá cái đẹp của tác phẩm mà còn sáng tạo ra nó bằng cách riêng của mình. Trong phê bình, Đỗ Lai Thuý, trước hết, chứng tỏ mình là một nhà khoa học, ông đặt giả thuyết, vận dụng các nguyên lý của phê bình thi pháp học, tìm con đường, phương án giải quyết mới, xây dựng mô hình, nỗ lực vận dụng các thao tác khoa học… Mục đích là để khai phá ra những chiều kích thẩm mỹ mới của tác phẩm nghệ thuật. Nhưng nhiều lúc Đỗ Lai Thuý lại gọi công việc của mình là những “mơ mộng nghệ thuật”. Công việc của nhà phê bình, như thế, hoàn toàn không thể thiếu trái tim mẫn cảm, sự mách bảo của trực giác, vô thức. Phải chăng chính sự “mơ mộng nghệ thuật” tạo nên vẽ duyên dáng trong tác phẩm phê bình của Đỗ Lai Thuý. Tài liệu tham khảo 2. Đỗ Đức Hiểu, Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn, 2000. 3. Trần Đình Sử, tuyển tập, (2 tập), NXB Giáo dục, 2005. 4.Hoài Thanh, Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, 1996. Theo Lê Sử ( hoinhavanvietnam.vn) |
NGÔ TỰ LẬP(Tiếp theo TCSH số 127/9-99)
NGÔ TỰ LẬP1.Platon nói rằng không thể có sự bình đẳng của những kẻ vốn không bình đẳng về mặt năng lực tự nhiên. Đó là xã hội người, nhưng chúng ta cũng có thể nói tương tự như vậy về xã hội từ ngữ.
ĐÀO DUY HIỆP “Hội làng mở giữa mùa thu Giời cao gió cả giăng như ban ngày” (Nguyễn Bính)
YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...
TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.
ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.
NHẬT CHUNG (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.
PHONG LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.
HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.
ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.
TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.
HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…
ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)
TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.
HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.
ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.
NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.
TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.
TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.