LÊ ĐÌNH SƠN
Lý Bạch (701-762), nhà thơ lớn đời Đường. Đề tài trong thơ Lý Bạch rất phong phú: thiên nhiên, tâm trạng, tình bạn, tình yêu...
Ảnh: internet
Lý Bạch có nhiều bài thơ nói về tình bạn. Bài "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" là bài thơ nổi tiếng được bạn đọc Trung Hoa, Việt Nam và nhiều nước trên thế giới xưa nay mến mộ.
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu.
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
Dịch thơ:
Bạn từ lầu Hạc lên đường
Giữa mùa hoa khói châu Dương xuôi dòng
Bóng buồm đã khuất bầu không
Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời.
(Ngô Tất Tố)
Đây là bài thơ viết trong một cuộc tiễn đưa vào mùa xuân.
Mạnh Hạo Nhiên (689-740) người tỉnh Hồ Bắc, nơi có lầu Hoàng Hạc nổi tiếng và thơ mộng. Thơ Mạnh Hạo Nhiên có nét tương đồng với phong cách thơ Lý Bạch. Thơ sơn thủy của Mạnh Hạo Nhiên đạt đến đỉnh cao. Lý Bạch rất ngưỡng mộ thơ Mạnh Hạo Nhiên. Lý Bạch kém Mạnh Hạo Nhiên 12 tuổi, nhưng tình bạn giữa hai người hết sức thắm thiết, chân thành và trong sáng.
Cuộc tiễn biệt giữa Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài thơ này không diễn ra theo quy luật thông thường của tình cảm. Cuộc tiễn đưa ở đây không rơi lệ, không lâm ly thống thiết. Cách biểu đạt cuộc chia biệt ở bài thơ này khá độc đáo.
Lý Bạch chỉ tả cảnh, nhưng đằng sau lớp cảnh (tầng nghĩa trực tiếp) bài thơ nói lên được chiều sâu tâm trạng của nhà thơ đối với bạn.
Các lớp cảnh của bài thơ được Lý Bạch triển khai trong một hệ thống chặt chẽ về thời gian và không gian.
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu
Tiễn bạn vào mùa xuân tháng ba hoa khói, tiết trời thanh minh đẹp đẽ trong sáng. Thời điểm tiễn đưa trong bài thơ chắc chắn là ban ngày. Tài quan sát của Lý Bạch qua sự gắn bó hài hòa giữa cảm nhận thời gian ("Yên hoa tam nguyệt") và không gian hiển hiện ("cô phàm", "bích không tận", "trường giang"...) chứng tỏ cái trong sáng, thanh cao trong tình bạn của buổi tiễn biệt. Nhà văn Ngô Tất Tố dịch "Yên hoa tam nguyệt" thành "giữa mùa hoa khói" đã lột tả được nghĩa thực của từ "yên hoa", chứ nghĩa bóng của nó thì chưa sáng rõ. Cái lấp lánh trong tình cảm thời gian mùa xuân đưa tiễn được bộc lộ ở nghĩa bóng từ "yên hoa" là chính. Cảnh diễm lệ của tháng ba mùa xuân rất nhất quán với không gian đưa tiễn trong bài thơ.
Điểm nhìn của Lý Bạch khi miêu tả không gian, phác thảo cảnh vật trong bài thơ rất đặc biệt. Trước hết là sự xuất hiện của các địa danh trong bài thơ: "Hoàng Hạc lâu", "Dương Châu". Hoàng Hạc lâu thuộc tỉnh Hồ Bắc, nơi xuất phát điểm nhìn của Lý Bạch trong cuộc tiễn đưa Mạnh Hạo Nhiên. Lý Bạch tiễn đưa bạn xuôi về Dương Châu từ phía tây lầu Hoàng Hạc.
"Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu"
Điểm nhìn từ phía tây lầu Hoàng Hạc vừa là hiện thực khách quan, vừa là hiện thực tâm trạng của Lý Bạch. Theo hướng ấy có người bạn tri âm đang xuống thuyền về nơi đất khách.
Hoàng Hạc lâu là nơi hội ngộ của những bậc văn nhân tài tử, nơi bừng phát và làm giàu có thêm tâm hồn bao thế hệ nhà thơ, nhà nghệ thuật đời Đường. Và nơi đây cũng là điểm chia xa của bao tình bạn cao cả. Buổi tiễn đưa của Lý Bạch đối với một "cố nhân" tại lầu Hoàng Hạc không chỉ là cuộc giã biệt giữa hai bạn thơ tầm cỡ mà còn là sự tiễn biệt của hai con người cùng cảnh ngộ, cùng hoài bão tốt đẹp trước thời đại thịnh Đường (713-766).
Quảng Lăng, Dương Châu thuộc tỉnh Giang Tô. Đây là nơi đến của Mạnh Hạo Nhiên và cũng là nơi trụ lại của điểm nhìn nhà thơ Lý Bạch. Đến nơi phồn hoa đô hội (Dương Châu) cũng là một khát vọng tận hưởng cảnh đẹp non sông đất nước của những tâm hồn thanh cao.
Hai câu đầu bài thơ tạo được sự hòa hợp giữa cảnh sắc mùa xuân diễm lệ với sự giàu đẹp của vùng đất Dương Châu. Vị trí không gian trong hai câu đầu (Hoàng Hạc lâu, Dương Châu) có ý nghĩa làm nền cho sự phát triển mạch cảm xúc trong hai câu cuối bài thơ. Sự việc, địa danh xuất hiện ở hai câu đầu bài thơ tưởng như tường thuật buổi chia tay nhưng thực chất đã hàm ẩn tình cảm lưu luyến giữa kẻ ở người đi. Đặc biệt gây ấn tượng mạnh mẽ bằng trực giác đối với người đọc là hệ thống hình ảnh cánh buồm, bầu trời và dòng sông ở hai câu cuối bài thơ.
"Cô phàm viễn ảnh bích không tận
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu
- Hình ảnh cánh buồm:
Trong nguyên tác, Lý Bạch dùng hình ảnh "cô phàm". Đó là cánh buồm lẻ loi, đơn côi đưa Mạnh Hạo Nhiên về Dương Châu. Tác giả chỉ là cánh buồm đơn độc, không thấy con người xuất hiện trực tiếp trong câu thơ. Nhưng chính cánh buồm lẻ loi này lại mang tâm trạng của người đi xa và cả tâm trạng tác giả. Đó là nỗi buồn cô đơn, man mác của tình bạn khi chia xa. Cánh buồm cô độc ở đây không còn là ngoại cảnh mà ẩn chứa một tâm cảnh vừa là của chủ thể trữ tình vừa là đối tượng trữ tình trong bài thơ. "Cô phàm" có giá trị nghệ thuật như một ẩn dụ tâm trạng.
- Hình ảnh bầu trời: Nguyên tác viết là "bích không tận". Đó là bầu trời không giới hạn, xanh biếc. Trong câu thơ "cô phàm viễn ảnh bích không tận”, cánh buồm thì lẻ loi mà bầu trời thì vô tận, cánh buồm ngày càng xa tít tắp, mất hút trong khoảng không gian bao la qua tầm nhìn có ý nghĩa trực giác - thẩm mỹ. Lý Bạch đem cái nhỏ bé hữu hạn (cô phàm) đặt trong cái lớn lao vô hạn (bích không tận) càng làm tăng giá trị biểu cảm của hình tượng thơ. Điều đó càng làm cho người đọc hiểu được chiều sâu nỗi buồn nhớ khó nguôi phai, buồn mà không bi lụy, nỗi niềm rất đáng quý của hai người bạn lúc chia xa.
- Hình ảnh dòng sông:
"Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu"
(Trông theo chỉ thấy dòng sông bên trời)
Trong tầm nhìn của Lý Bạch hiển hiện một dòng Trường Giang mênh mang, bất tận. Bề mặt không gian của dòng sông trong cảm nhận của nhà thơ dường như chảy ngang trời (thiên tế lưu). Lối đặc tả ấy có tác dụng gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc. Đó là một dòng sông tâm trạng tàng ẩn niềm thương nỗi nhớ của Lý Bạch đối với người bạn đã xa khuất.
![]() |
Ba hình ảnh "dòng sông", "cánh buồm" và "bầu trời” ở cuối bài thơ tạo nên sự phối cảnh, nét phác thảo, chấm phá tài ba trong tầm mắt của một danh họa(*). Cánh buồm xa mờ chỉ là một chấm nhỏ lẫn vào bầu trời xanh biếc. Trong khoảng không vô tận ấy, từ cao điểm của tầm nhìn (Hoàng Hạc lâu), Lý Bạch chỉ thấy tồn tại một dòng Trường Giang mải miết chảy bên trời.
Lối dùng cảnh ngụ tình và tính chất "thi trung hữu họa" ở hai câu thơ cuối thật thâm thúy, hàm súc. Cách biểu đạt tâm trạng con người, sự chú mục và chú tâm theo dõi người bạn đi xa, Lý Bạch không bộc lộ trực tiếp trong bài thơ mà thường thông qua cảnh vật, đặc biệt qua mối quan hệ tương tác giữa các hình ảnh miêu tả và ý ngoài lời của nó để người đọc tự cảm nhận về tình người, tình bạn thắm thiết cao cả giữa Lý Bạch và Mạnh Hạo Nhiên.
Có ý kiến cho rằng bài thơ "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng" chỉ là bài thơ tả cảnh (Trần Xuân Đề). Nguyễn Khắc Phi gợi vấn đề suy nghĩ: "Hai câu thơ sau tả cảnh hay tả tình? (tự đặt vị trí tác giả để lý giải vấn đề).
Theo chúng tôi, từ cái nền cảnh mùa xuân tiễn bạn (nghĩa trực tiếp) bài thơ mang tầng nghĩa đa âm thật phong phú. Cái phản ánh ở bài thơ này là tả cảnh nhưng cái được phản ảnh lại là tả tình. Bài thơ này không thuần túy nói về cảnh và chỉ có tả cảnh. Bằng tri giác ngôn ngữ để thâm nhập bài thơ thì tưởng là tả cảnh, nhưng bằng hồi ức, liên tưởng và tưởng tượng để cảm thụ bài thơ thì mới phát hiện được dòng chảy tình cảm xuyên suốt bài thơ. Đây là bài thơ trữ-tình đặc biệt, xuất sắc của Lý Bạch.
Sự tương tác giữa không gian và thời gian nghệ thuật (mùa xuân tiễn bạn), giữa hệ thống các hình ảnh trung tâm xuất hiện trong bài thơ tạo nên giá trị NHÂN BẢN sâu sắc và giá trị nghệ thuật cao mang đậm phong cách lãng mạn của thơ Lý Bạch.
L.Đ.S
(TCSH53/01&2-1993)
_____________________
(*) Ngô Đạo Tử - Một nhà hội họa tài ba thời nhà Đường đã vẽ một bức tranh sơn thủy nổi tiếng từ bài thơ này của Lý Bạch (sách Từ điển Trung Hoa Văn học cổ điển - trang 154)
NGUYỄN ĐĂNG MẠNHNguyễn Khải ở trong Nam, ít khi tôi được gặp. Tôi rất thích nói chuyện với anh. Đúng ra là tôi thích nghe anh nói.
PHẠM XUÂN HÙNG(Về cuốn Đọc văn - Tiểu luận - Phê bình của Phạm Phú Phong, NXB Thuận Hóa, 2008)
HÀ VĂN LƯỠNGChingiz Aitmatốp thuộc trong số các nhà văn lớn được độc giả nhiều nước trên thế giới biết đến. Tác phẩm của ông thể hiện những vấn đề đạo đức nhân sinh, nhân loại. Ngoài việc sử dụng các đặc điểm thời gian, không gian nghệ thuật, cấu trúc, giọng điệu tác phẩm... nhà văn còn đưa huyền thoại, truyền thuyết vào tác phẩm như là một thi pháp biểu hiện mang tính đặc trưng của ông.
TÔ NHUẬN VỸ(Nhân đọc một số bài tranh luận về cuốn THƠ ĐẾN TỪ ĐÂU)
NGUYỄN KHẮC PHÊBộ trường thiên tiểu thuyết “Sông Côn mùa lũ”(*) của nhà văn Nguyễn Mộng Giác, được bạn đọc chú ý trước hết vì bề dày 4 tập 2000 trang với nhân vật trung tâm là người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ; sau nữa, đây là tác phẩm văn học dày dặn nhất của một Việt kiều được xuất bản trong nước.
ĐỖ NGỌC YÊN…Thơ Hoàng Trần Cương là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa những chất liệu, hình ảnh và ngôn ngữ của đời sống, với sự đào sâu những suy tư, khát vọng sống của con người và một vùng quê mà anh đã nặng nghĩa sinh thành...
THỦY THANHCơn đại hồng thủy đầu tháng 11 năm 1999 được coi như "bản tổng kết thủy tặc" đầy bi tráng của thiên nhiên trong thế kỷ 20 đối với mảnh đất Thừa Thiên Huế. Nó đã gây ra nỗi kinh hoàng, đau thương, mất mát to lớn và cũng để lại không ít những hệ lụy nặng nề cho con người ở nơi đây. Và cũng chính nó - cơn lũ chưa từng có này - đã đi vào lịch sử.
BẾ KIẾN QUỐCNăm ấy, vào quãng mùa hè 1982, khi đang trực Ban văn xuôi của báo Văn Nghệ, tôi nhận được một bản thảo truyện ngắn kèm theo lời nhắn: “ Cái truyện này rất quan trọng đối với tôi. Rất mong được tòa soạn đọc kỹ và cho ý kiến. Mấy hôm nữa tôi sẽ quay lại”.
THÁI DOÃN HIỂUNgô Văn Phú là thi sĩ của đồng quê. Anh có thể viết nhiều đề tài như xây dựng, chiến tranh, lịch sử, tình yêu..., nhưng như lá rụng về cội, ngược về nguồn, Ngô Văn Phú trở lại nơi làng quê yêu dấu với một tình yêu bẩm sinh, yêu đến tận cùng gốc rễ như Nêruđa đã viết.
MAI VĂN HOANTrong số bạn bè cùng lứa thì Ngô Minh bước vào làng thơ muộn màng hơn cả. Nếu Lâm Thị Mỹ Dạ được chú ý ngay khi còn ngồi trên nghế nhà trường, Hải Kỳ có thơ in trên báo Văn nghệ những năm 69,70 thì Ngô Minh vẫn chưa hề có ai hay biết.
HOÀNG VŨ THUẬTCó những bài thơ đọc lên và bắt gặp ngay cái đẹp trong từng câu chữ. Lại có những bài thơ đọc đi đọc lại thấy hay mà không dễ gì tìm thấy ngay được. Nó như vẻ đẹp của người con gái có duyên thằm. Cái đẹp thầm kín, ẩn náu.
HOÀNG VŨ THUẬTTrong một bài thơ viết trên giường bệnh, trước khi mất vài hôm Thanh Hải tâm sự: Ta làm con chim hót Ta làm một cành hoa Ta nhập trong hòa ca Một nốt trầm xao xuyến (Mùa xuân nho nhỏ)
Tiểu thuyết "Vạn Xuân" (Dix mille Printemps) của nữ văn sĩ Pháp Yveline Féray viết về cuộc đời Nguyễn Trãi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn dày trên 1200 trang, do Nguyễn Khắc Dương và một số cộng tác viên dịch, do Nhà xuất bản Văn học in năm 1997 đã được độc giả Việt Nam đón nhận nồng nhiệt.
PHAN VĂN CÁCTuy Lí Vương Nguyễn Miên Trinh (1820- 1897) là con thứ 11 vua Minh Mệnh triều Nguyễn, tự là Khôn Chương, lại có tự là Quý Trọng, hiệu là Tĩnh Phố (tên ngôi vườn ông ở) lại có hiệu là Vi Dã. Tuy Lí Vương là tước phong cuối cùng của ông (trước đó từng có tước Tuy Quốc công năm 19 tuổi).
HOÀNG CẦM(Lời Bạt cho tập thơ ĐÓA TẦM XUÂN của Trịnh Thanh Sơn - Nhà Xuất bản Văn học 1999)
NGUYỄN KHẮC PHÊTác phẩm đầu tay của tôi - tập ký sự “Vì sự sống con đường” (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1968) viết về những đồng đội của tôi trong cuộc chiến đấu anh hùng bảo vệ tuyến đường 12A lên đèo Mụ Dạ, một đoạn đường trọng yếu trong hệ thống đường Hồ Chí Minh giai đoạn 1965-1966, được xuất bản năm 1968, nhưng bài viết đầu tiên của tôi được in trên báo chí khi tôi vừa tròn 20 tuổi và đang học tại Hà Nội.
Thanh Hải tên thật là Phạm Bá Ngoãn. Anh sinh ngày 4 tháng 11 năm 1930, quê ở xã Phong Bình, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhà thơ mất ngày 15 tháng 12 năm 1980, tại thành phố Huế.
LÊ VĂN DƯƠNG1. Quý II năm 2005, Nhà xuất bản Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh phát hành, nói đúng ra là tái bản lần thứ nhất cuốn Tản mạn nhớ và quên của Nguyên Ngọc. Cuốn sách dày 560 trang, tập hợp 15 bài viết của tác giả ở những thời điểm khác nhau nhưng đa phần là vào những năm 90 của thế kỷ XX và một vài năm mở đầu thế kỷ XXI.
PHAN CHÍNSau khi làm tròn vai một nhà chính trị, không giống như nhiều người khác, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm rời Thủ đô Hà Nội về Huế sinh sống.
NGUYỄN THỊ KIM THANH(Nhân đọc Tập thơ Ngày đầu tiên của Trần Hữu Lục - NXB Hội Nhà Văn, 01-2010)