Đi tìm cái mới lạ cho thơ

16:24 04/09/2008
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Không nhà thơ nào muốn lặp lại những gì thơ ca đã có, kể cả lặp lại chính mình. Đi tìm cái lạ cái mới, chính là bản chất của sáng tạo.

Nghiên cứu các tác phẩm đoạt giải Noben văn chương, một nhà nghiên cứu cho rằng, tất cả những tác phẩm ấy đều mang tới những trạng thái sống kỳ lạ, thậm chí dị biệt. Đấy là một thế giới riêng do nhà văn tạo ra, không có thật trên thế gian (ví dụ như làng Ma-Côndo trong tiểu thuyết "Trăm năm cô đơn" của G.Máckét) nhưng lại mang tới cho người đọc những miền tăm tối hay sáng láng chưa từng thấy ở con người. Tôi coi "trạng thái sống" như một thuật ngữ để soi rọi văn chương, và soi rọi riêng vào thơ ta thì nhìn chung, thơ ta đã mang tới nhiều điều sâu kín của tâm hồn. Những bí mật được phơi bày lần đầu tiên sẽ không còn bí mật nữa, nó biến thành phẩn nổi của tảng băng trôi. Cuộc sống mãi mãi còn chứa đựng vô số những bí mật chìm của tảng băng đó. Một vùng đất miền Trung nghìn năm còn chứa đầy bí mật sau những ngôi mộ được đắp lên bởi chiến tranh. Những ngôi mộ không chỉ liên quan đến một vài người thân mà liên quan đến cả dân tộc này. Ở trong sự liên quan đó có vô số những trạng thái sống mà văn học ta chưa nhìn thấy hết. Cái lạ cái mới đang ẩn mình trong đó. Ngòi bút của nhà văn nhà thơ nếu biết hướng vào đó sẽ tìm được chính tài năng của mình, nghĩa là anh sẽ mang tới cái lạ cái mới, cái trạng thái sống chưa từng có trong thơ ta, văn ta, làm cho văn học không giống một cái mẹt vừa tròn vừa dẹt, mà nó nhấp nhô như đất, cuộn chảy như sông và mênh mông như biển. Nghĩa là văn học thoát ra khỏi những chai lì mòn cũ của những trạng thái sống ẩm mốc.
2. Theo tôi, cái mới lạ không chỉ nằm trong nội dung mà còn nằm trong chính hình thức của nó. Việc cách tân hình thức đối với văn học là vô cùng quan trọng. Quá khứ đã tạo ra những hình thức ổn định, nhưng cũng nên nhớ rằng trước khi nó được tạo ra, vốn là nó chưa hề có. Tôi không tài nào hình dung nổi câu thơ lục bát Việt đã ra đời như thế nào. Nhưng nó đã ra đời và ổn định hàng mấy trăm năm nay. Tạo ra hình thức tuyệt vời cũng có nghĩa là tạo ra "mốt". Nhà tạo mốt thơ lục bát là ai, nếu biết, có thể dựng tượng đài thật hoành tráng cho thơ Việt. Liệu trong những nhà thơ của chúng ta, ai sẽ tạo được "mốt" mới cho thơ Việt trong tương lai? Đấy là một điều đáng suy nghĩ đối với những nhà sáng tạo thơ. Tuy nhiên, việc sáng tạo và việc chấp nhận cái mới cái lạ không chỉ phụ thuộc vào nhà sáng tạo, mà còn phụ thuộc vào cả người thưởng thức. Người ta nói nhiều về việc "nâng cao dân trí" nhưng lại rất ít chú ý đến việc "nâng cao dân trí thơ". Thưởng thức nghệ thuật tự nhiên và thưởng thức nghệ thuật bằng tri thức là rất khác nhau. Dân trí nhạc của ta chưa đạt tới trình độ nghe nhạc giao hưởng, trong lúc dân trí Tây đã tiếp cận được nhạc giao hưởng hiện đại. Những sự phê phán vô lối đối với thơ, kể cả một số nhà thơ đầy chủ quan tự mãn hay những nhà phê bình "lý loạn" đôi khi thật ấu trĩ, ngăn trở việc cách tân thơ, cần phải tự xem lại chính mình hơn nữa. Bởi cách tân luôn là bản chất của sáng tạo. Hiện tượng những người mặc áo quần của kẻ khác lại lên tiếng chê bai những người mặc kiểu áo quần của chính họ tạo ra, vẫn luôn xảy ra như "chuyện thường ngày ở huyện".
3. Trong sáng tạo thơ, tôi luôn kính nể những tài năng lão làng, nhưng tôi cũng phải biết kính nể những tài năng trẻ. Những đại thụ có thể xẻ gỗ dựng nhà, những mầm non sẽ làm nên rừng mới, rồi sẽ thành đại thụ hay cổ thụ. Một điều hiển nhiên là người ta ít hy vọng vào cái đã già mà hy vọng vài cái non trẻ. Lực lượng thơ trẻ của chúng ta hôm nay rất đông đảo và đã có những hiện tượng nổi trội trong cánh rừng non xanh ấy. Môt số bài thơ của Văn Cầm Hải được in ở nước ngoài, được dịch ra tiếng Anh. Một số bài thơ của Vi Thuỳ Linh được giới thiệu trên tạp chí Europe . Thơ Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, v.v... được người Việt ở nước ngoài quan tâm. Những Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Lê Vĩnh Tài, Nguyễn Vĩnh Tiến, Trần Tiến Dũng và gần đây là Lý Đợi là những tác giả trẻ thật đáng lưu tâm. Chúng ta chống lại sự tranh cãi hàng tôm hàng cá về thơ vì thơ không phải là tôm cá, và chúng ta tôn trọng sự tranh luận có lý có tình về thơ. Theo tôi, một nhà thơ tạo ra được tranh luận là một nhà thơ không bình thường. Chính nhà thơ trẻ Vi Thuỳ Linh đã tạo ra được hiện tượng trong thơ ta vài năm gần đây. Nhiều luồng ý kiến khác nhau được đăng tải trong nước. Nhiều tờ báo, đài phát thanh nước ngoài phỏng vấn tác giả. Và hơn 2 tháng nay trên mạng Internet phát đi từ Đức luôn có bài tranh luận về thơ Vi Thuỳ Linh. Chỉ có chính tác giả mới chịu trách nhiệm về thơ và người của họ. Và cái đáng khích lệ là sau tranh luận về mình, Vi Thuỳ Linh đang chuẩn bị cho in tập thơ thứ 3 tên là Vili tiếp theo Khát và Linh. Tôi nghĩ rằng thơ trẻ đã khác, bởi thế hệ viết bằng máy vi tính, thông thạo nhiều ngoại ngữ, với lối tư duy lập trình của thời đại mới (kể cả nội dung và hình thức), họ sẽ mang đến cho thơ những điều mới lạ chưa từng có. Là một nhà thơ, tôi đứng về phía thơ ca, và về thế hệ, tôi muốn được đứng về phía các nhà thơ trẻ.
Sầm Sơn, 19.9.2002
N.T.T
(nguồn: TCSH số 164 - 10 - 2002)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÂM THỊ MỸ DẠQuá trình cảm thụ thế giới:Những tứ thơ tức là những yếu tố nội dung cấu trúc nên một tác phẩm thi ca. Nói rộng tức là những yếu tố làm nên thế giới thi ca của một nhà thơ.

  • PHẠM PHÚ PHONG(Nhân đọc Hai mươi nhà văn, nhà văn hoá Việt thế kỷ XX)

  • Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.

  • ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.

  • (Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)

  • INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.

  • TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)

  • KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.

  • (Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)

  • LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.

  • NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.

  • HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.

  • ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.

  • CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.

  • Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”

  • LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H

  • LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.