Di tích lịch sử ở đỉnh đèo hải vân không chỉ là một cái cửa thành

10:40 22/05/2008
Những ai đã từng đi đường bộ từ Bắc vào Nam đều phải vượt đèo Hải Vân và đã chứng kiến cái di tích Hải Vân Quan đứng sừng sững trên đỉnh đèo nhìn về phía vịnh Đà Nẵng.

Nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu, nhà viết từ điển lịch sử đã viết về đèo Hải Vân. Thế nhưng, tiếc thay đa số những người nầy đều hiểu di tích ở đỉnh đèo Hải Vân quá đơn giản và nhầm lẫn nhiều chi tiết đáng tiếc.
Những nhầm lẫn đã xảy ra là:
- Di tích Hải Vân chỉ là một cái cửa trên đỉnh đèo Hải Vân, Con đường cái quan (đường Thiên Lý) ngày xưa đã đi qua cửa đó.
- Nhiều người viết phía trên cái vòm cửa Hải Vân, mặt phía Nam có biển đá đề ba chữ Hán lớn Hải Vân Quan làm năm Minh Mạng thứ bảy (1826), mặt phía Bắc vòm cửa đề 6 chữ
Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan.
- Nhiều người viết ngược lại cho rằng ba chữ Hải Vân Quan ở mặt Bắc (nhìn về phía Huế) và Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan nằm ở mặt phía Nam (nhìn về Đà Nẵng);
- Có người viết 6 chữ Thiên Hạ Đệ Nhất Hùng Quan ở mặt Bắc vòm cửa Hải Vân Quan đã mất từ lâu; người khác lại cải chính rằng 6 chữ ấy vẫn còn nằm ở chỗ cũ, phải lên trên cao một chút mới thấy.
v.v và v.v.
Nhận thấy đây là một di tích quân sự quan trọng, nằm ở vị trí đặc biệt và có khả năng khai thác du lịch, không thể hiểu nhầm như thế được nên tôi đã sưu tập tư liệu và khảo sát thực địa mô tả lại cho đúng như sau:
1
. Đỉnh Hải Vân qua lịch sử.
Không rõ thời còn thuộc Vương quốc Chăm-pa núi Hải Vân được mang tên gì1. Và từ sau ngày về với Đại Việt (1306) tên Hải Vân do ai đặt và đã xuất hiện từ bao giờ thì chúng tôi chưa tra cứu được. Chỉ mới được biết vào năm Nhâm Dần (1602), mùa thu tháng 7 Chúa Tiên Nguyễn Hoàng: “đi chơi núi Hải Vân, thấy một dải núi cao dăng dài mấy trăm dặm nằm ngang đến bờ biển. Chúa khen rằng: “Chỗ nầy là đất yết hầu của miền Thuận Quảng”. Liền vượt qua núi xem xét hình thể, dựng trấn dinh ở xã Cần Húc (Duy Xuyên) xây kho tàng, chứa lương thực, sai hoàng tử thứ sáu trấn giữ”2.
Hoàng tử thứ sáu ấy là Nguyễn Phúc Nguyên. Hơn mười năm trấn giữ Quảng (1602-1613), Nguyễn Phúc Nguyên đã giúp Chúa Tiên mở mang bờ cõi về phía và tổ chức Hội An thành một đô thị cửa biển quan trọng. Người có công đầu mở mang phố Hội An để hôm nay được công nhận là Di sản thế giới có thể nói chính là Nguyễn Phúc Nguyên. Di tích Hải Vân và phố Hội An có một quan hệ lịch sử bắt đầu từ thời điểm ấy (1602).
Đến năm 1714, Quốc Chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) tuần hạnh Quảng qua núi Hải Vân có ngự đề bài thơ rằng:
Việt hiểm ải thử sơn điên/Hình thế hồn như Thục đạo thiên
Đãn kiến vân hoàng tam tuấn lãnh./Bất tri nhân tại kỷ trùng thiên
.
(Chót núi nầy là hiểm trở nhất ở Việt Nam/Hình thể giống như đường đi ở đất Thục/Chỉ thấy mây dăng trên ba núi lớn/Không hay mình ở trên mấy từng trời).
3
Thời quân Trịnh chiếm đóng Phú Xuân (1774-1786), Lê Quí Đôn viết sách Phủ biên tạp lục cho biết trên đỉnh đèo Hải Vân có một “đồn tuần quán Ải”4 và quân Trịnh “đã cho làm tại đỉnh đèo Hải Vân một dẫy lũy kiên cố, để chống giữ với những bất trắc ở phía nam”5. Khoảng trung tuần tháng năm năm Bính Ngọ (1786), đạo quân chủ lực của Tây Sơn không đánh lũy Hải Vân từ phía đông nam lên (bờ biển Đà Nẵng) mà đi đường thượng đạo phía tây nam Phú Lộc leo lên đỉnh núi Hải Vân rồi từ trong mây mù trên cao tấn công xuống. Bị đánh bất ngờ Trịnh quân phải bỏ luỹ tháo chạy nhưng cũng bị bắt và bị giết gần hết. Chủ tướng Trịnh là Hoàng Nghĩa Hồ phải bỏ mạng sa trường6.
Thời Tây Sơn không rõ có xây dựng lại luỹ Hải Vân hay không, cho đến nay chưa tìm được một tư liệu nào để khẳng định rằng có hay không có cả. Thời Gia Long (1802-1819), theo đại uý Rey trên đỉnh Hải Vân không có sự phòng thủ nào quan trọng. Chỉ có một cơ quan thu thuế nhỏ, vài quán ăn, nơi ở bình dân7.
2. Đồn ải Hải Vân:
Tài liệu của Quốc sử quán triều Nguyễn, công trình nguyên cứu của ông H.Cossarat (BAVH, 1921), cùng với tài liệu điền dã cho biết di tích tại đỉnh đèo Hải Vân là một đồn ải kiên cố gồm có một hệ thống phòng thành, các ụ đặt súng thần công, doanh trại dành cho sĩ quan và lính giữ ải ở, kho thuốc súng...đặc biệt là đoạn đường Thiên Lý nối hai cửa ải chạy giữa hai bức thành đá kiên cố hình vòng cung dài trên 30m. (xem sơ đồ). Cửa trước (hướng Nam Bắc, nhìn về phía Đà Nẵng, hiện còn gần như nguyên vẹn), chiều cao và bề dài đều 15 thước, bề ngang 17 thước 1 tấc. Cửa sau (hướng Đông Tây, về phía Huế) cao 15 thước, dài 11 thước, ngang 18 thước 1 tấc. Cửa tò vò (cũng gọi là cửa vòm) của hai cửa trước và cửa sau đều cao 10 thước 8 tấc, bề ngang 8 thước 1 tấc. Phía trên cửa vòm mặt trước cửa trước có gắn một phiến đá hình chữ nhật chạm nổi theo chiều ngang ba chữ Hải Vân Quan. Bên trái phiến đá chạm theo chiều từ trên xuống dưới 7 chữ nhỏ Minh Mạng Thất Niên Cát Nhật Tạo (xây dựng vào một ngày tốt năm Minh Mạng thứ bảy). Phía trên cửa vòm mặt ngoài cửa sau (hướng về phía Huế, hiện còn dấu tích) cũng có gắn một phiến đá hình chữ nhật cũng cỡ với phiến đá nói trên, chạm nổi theo chiều ngang sáu chữ Thiên hạ đệ nhất hùng quan” (cửa ải hùng mạnh nhất thiên hạ). Bên trái phiến đá mặt ngoài cửa sau nầy cũng chạm một dòng chữ Minh Mạng Nhất Niên Cát Nhật Tạo giống như phiến đá gắn ở mặt trước cửa trước.
(Các di tích thuộc ải Hải Vân xưa đều nằm về phía tay trái (hướng bắc nam) đường quốc lộ 1 A qua đỉnh đèo Hải Vân ngày nay).
Công trình Ai Hải Vân do dân Thừa Thiên và Quảng Nam làm xong trong vài tháng.8 Sau đó vua Minh Mạng phái biền binh 4 đội hữu sai và 2 đội ứng sai chở súng ống đến để đấy (súng quá sơn bằng đồng 5 cổ, ống phun lửa 200 ống, pháo thăng thiên 100 cây và thuốc đạn theo súng) theo viên tấn thủ đóng giữ. Chuẩn định từ Hải Vân trở ra Bắc thuộc quản hạt Thừa Thiên, từ ngoài Hải Vân trở vào thuộc quản hạt Quảng-Nam.”9.
Về vũ khí phòng thủ, tài liệu của triều Nguyễn cho biết có 5 khẩu súng quá sơn (canon), nhưng theo C.Paris (Pháp) thì có đến 6 khẩu bằng đồng (bronze) và bằng gang (fonte),được đặt mỗi bên 3 khẩu, chế tạo từ năm Minh Mạng thứ 7 (1826). C.Paris đã cho biết kích thước của 2 khẩu tiêu biểu: Khẩu thứ nhất dài 1m77, lòng súng có đường kính 0m11, khẩu thứ hai dài 1m89, lòng súng cũng có đường kính 0m11. (xem ảnh 2).
Hệ thống phòng thủ cho Kinh đô Huế tại ải Hải Vân là một công trình quân sự tiêu biểu nằm trong quần thể di tích của triều Nguyễn. Thiết nghĩ nên được nghiên cứu và tôn tạo để làm một di tích quân sự cổ của Việt . Nếu chưa làm được điều đó để khai thác du lịch thì Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế cũng nên chăm sóc, xoá đi cái hình ảnh hoang phế cỏ mọc um tùm như hiện nay.
Bên dòng Thọ Lộc 6.2001

NGUYỄN ĐẮC XUÂN
(nguồn: TCSH số 149 - 07 - 2001)
------------------------------------------------------

1Ngay cả hai ông Dohamide và Dorohiem đồng tác giả Dân tộc Chàm Lược sử in lần thứ nhất 1965 cũng không biết tên cũ là gì nên vẫn dùng tên đèo Hải Vân, xem tr.75
2ĐNTL (Tiên biên), bản dịch t.I, Nxb Sử học, Hà Nội 1962, tr.42
3ĐNNTC, Thừa Thiên Phủ tập thượng, Tu Trai Nguyễn tạo dịch, Nha Văn hoá Bộ QGGD, SG. 1961, tr.54
4Phủ biên tạp lục, tập I, bản dịch Lê Xuân Giáo, Phủ QVKĐTVH xb, SG.1972,tr.204
5Nguyễn Lương Bích-Phạm Ngọc Phụng,
Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ, QĐND, HN.1977,tr.114
6Nguyễn Lương Bích…, Sđd.,tr.116
7Theo H.Cossarat,
Le Fortin du col des nuages, BAVH 1921, tr.72
81 thước ta= 0,425m
9 ĐNTLCB, tập VIII,Nxb KHXH,Hà Nội 1964; tr.22 và 23

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN QUYẾNTrong quá trình đi điền dã thu thập tư liệu Hán Nôm ở huyện Phú Lộc Thừa Thiên Huế, chúng tôi đã được tiếp cận hai đạo sắc phong cho người có công trị thủy ở từ đường dòng họ Lê Kim, thôn Đông, làng Bàn Môn, xã Lộc An.

  • PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.

  • LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT

  • HUỲNH ĐÌNH KẾT

    Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…

  • NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...

  • HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.

  • BEATRICE KALDUN         (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.

  • PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.

  • PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN MỄ                    (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.

  • LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.

  • NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.

  • PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.

  • PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...