Di tích cảnh quan Huế - một số vấn đề về công tác bảo tồn

15:03 15/01/2010

HUỲNH ĐÌNH KẾT

Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.

(Ảnh: Internet)

Đại bộ phận di tích Huế là các công trình kiến trúc, trong đó bao gồm quần thể di tích cố đô triều Nguyễn đã được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới, và phức hệ đình, chùa, miếu vũ, phủ đệ, nhà vườn… được phân bố dày đặc và tập trung ở địa bàn thành phố Huế. Trong một công trình nghiên cứu khoa học mới đây đã ghi nhận 51 đình làng, 3 hội quán, 56 từ miếu, 56 chùa, 12 giáo đường, 32 lăng mộ, nghĩa trang, đài tưởng niệm, 42 phủ đệ, 13 nhà vườn (vườn cảnh) 19 di tích lịch sử cách mạng và 6 di chỉ khảo cổ học. Cùng với quần thể kiến trúc hết sức phong phú đa dạng về loại hình và số lượng nói trên là các cảnh quan thiên nhiên (sông núi, gò đồi) xen kẽ, hài hòa… làm nên một tổng thể di tích cảnh quan không dễ gì có được ở những địa bàn khác.

Về mặt giá trị, lâu nay đã có nhiều ý kiến đề cập, đánh giá. Ngoài điểm nổi bật được nhiều người đồng tình là di tích Huế phản ánh đời sống kiến trúc dân gian và cung đình ở các thế kỷ 17, 18, 19 và 20; trong đó phong cách kiến trúc triều Nguyễn là tiêu biểu với những chất liệu đặc trưng và quy trình thiết kế trang trí mỹ thuật riêng… còn có một mặt giá trị phái sinh gắn bó hữu cơ với di tích kiến trúc Huế ở chỗ chính phức hệ loại hình kiến trúc này là nơi tồn tại, chuyển giao đời sống tâm linh của các thế hệ cư dân; đó là tín ngưỡng thờ phụng tổ tiên, tục thờ thần, tín ngưỡng tôn giáo… Chỉ riêng lĩnh vực văn hoá ẩm thực mà thôi cũng đủ nói lên điều đó, bởi vì giá như quần thể di tích Huế biến mất hoặc người xưa không xây dựng nó thì các loại hình sinh hoạt như lễ hội, tập tục sẽ không có điều kiện tồn tại; chúng ta sẽ không có món ăn chay nấu theo kiểu Huế, không có được hơn 1.200 món ăn mang dấu ấn vùng Huế trong tổng số 3.000 món ăn của cả nước đã được khảo sát mới đây, và cũng không thể có một tập sách thơ, vần vè “Thực phổ bách thiên” đề cập 100 món ăn Huế vừa làm chức năng bảo tồn vừa làm nhiệm vụ chuyển giao kỹ thuật của thế hệ trước đối với thế hệ sau.

Như vậy, di tích cảnh quan Huế không chỉ có giá trị vật chất mà còn có giá trị tinh thần, đây là hai mặt của vấn đề giá trị văn hoá cần được nhận thức đầy đủ, điều mà lâu nay thường có xu hướng tách bạch rạch ròi đã dẫn đến thái độ ứng xử “nhất bên trọng, nhất bên khinh”.

Do đó, bảo tồn di tích cảnh quan Huế chính là đồng thời bảo tồn giá trị văn hoá phi vật thể, bảo tồn một chỉnh thể văn hoá, ở đây là văn hoá Huế, điều này rất biện chứng hợp logic bởi vì vật chất quyết định ý thức, và một khi tinh thần đã được xác lập với tư cách là giá trị văn hoá được tạo nên từ di tích cảnh quan sẽ trở thành động lực phát triển. Mặt khác làm tốt công tác bảo tồn chính là điều kiện tiên quyết cho việc phát huy giá trị văn hoá vậy.

Làm thế nào để làm tốt việc bảo tồn di tích cảnh quan Huế?

Trước hết, cần xem xét cái mối quan hệ chi phối di tích cảnh quan, đó là:

- Về số lượng: có lẽ ngoài thủ đô Hà Nội ra, Huế là địa bàn có rất nhiều đơn vị di tích; do đó việc xác lập mối quan hệ giữa di tích với đất đai, giữa di tích với sở hữu chủ, giữa di tích với môi trường, với luật pháp, với quá trình phát triển đô thị… diễn ra đan chéo, nhiều tầng nấc với nhau.

- Về nội dung: Do được phủ lên mình nhiều thời kỳ, thời đoạn và những dấu ấn lịch sử khác nhau nên trong mỗi một di tích xuất hiện sự đối lập giữa giá trị văn hoá vật thể với giá trị văn hoá phi vật thể, giữa cổ truyền và đương truyền, ví như cụm đài chiến sĩ trận vong (Monument aux Mort) đã được xây dựng từ năm 1920 để ghi tên những người lính Pháp (trong đó có người Việt Nam đăng lính Pháp) tử trận trong thế chiến thứ nhất ở châu Âu (1914-1918). Ở góc độ vật thể đây là một công trình do họa sĩ Tôn Thất Sa vẽ đồ án, là một tiểu kiến trúc có giá trị thẩm mỹ, song nó lại được sử dụng vào mục đích phi văn hoá đối với dân tộc ta. Đối với vấn đề này đòi hỏi những người đương đại phải có thái độ ứng xử phù hợp, và chúng ta đã ứng xử đúng để ngày nay công trình ấy vẫn hiện diện như là một tiểu cảnh của dòng sông Hương thơ mộng.

Dưới đây là một số ý kiến chủ quan của chúng tôi về một vấn đề lớn đang thực sự chi phối đời sống của đông đảo cư dân có quan hệ gần xa với Huế.

Một là: Vấn đề sở hữu chủ của di tích; đây là lợi ích của chủ nhân gắn liền mật thiết và hữu cơ đối với di tích, do vậy mỗi một di tích phải được xác định người chủ của nó cùng với quyền lợi và trách nhiệm mà họ có quyền hưởng thụ trên di tích và có bổn phận thi hành đối với di tích.

Một quần thể di tích bao gồm công trình kiến trúc (NHÀ) và đất di tích mà công trình tọa lạc (ĐẤT), vậy chủ sở hữu của di tích phải được xác lập quyền sở hữu nhà và đất trong hành lang pháp lý hiện hành. Song do lịch sử di tích có nguồn gốc khác nhau nên đây là lĩnh vực mang nhiều vấn đề cần phải được xem xét theo từng trường hợp cụ thể. Hiện nay có loại di tích thuộc quyền sở hữu của nhà nước, có loại thuộc cộng đồng làng xã họ tộc, thuộc tôn giáo hoặc thuộc cá nhân; trong đó di tích của họ tộc (phòng, hệ, chi, phái) do cá nhân được ủy nhiệm bảo quản thường xuất hiện những tranh chấp nội bộ rất khó giải quyết.

Hai là: Bảo tồn là giữ nguyên trạng hiện có, mọi chương trình sửa chữa trùng tu đều phải đảm bảo quy trình khoa học và quy phạm pháp luật trong bối cảnh đang chịu sức ép gia tăng dân số, sức ép của tốc độ xây dựng trong quá trình đô thị hóa. Mặt khác, di tích Huế đã ra đời vào thời Nguyễn, cao điểm xây dựng ở những năm giữa thế kỷ 19; đến nay đã đồng loạt hết tuổi thọ, đang có nhu cầu trùng tu sửa chữa lớn, do đó tình trạng “lực bất tòng tâm” là một thực tế.

Ba là: Hệ thống pháp luật đã được ban hành về nhà và đất hiện hành nhằm vào đối tượng điều chỉnh chung của xã hội, chưa có điều kiện xác lập những qui phạm pháp luật áp dụng riêng đối với di tích cảnh quan.

Vì vậy, bảo tồn di tích cảnh quan Huế cần tập trung một số vấn đề cụ thể như sau:

Một là: Thông qua kết quả tổng kiểm kê vừa được tiến hành xong, cùng với các bước triển khai về công tác địa chính và nhà đất hiện nay, cần đặc biệt xem xét hoàn cảnh lịch sử cụ thể từng trường hợp để xác định chủ sở hữu của di tích.

Hai là: Khẩn trương lập hồ sơ khoa học ban đầu của từng di tích nhằm xác lập các quy phạm pháp luật, đưa vào hệ thống bảo vệ, trước mắt là cấp giấy chứng nhận di tích (theo các mức độ: cấp quốc gia, cấp tỉnh, cấp cơ sở).

Ba là: Phải xây dựng một cơ chế bảo vệ di tích, trước hết là nguồn kinh phí, nhà nước không thể bao cấp toàn bộ, song cũng không thể để cho tình hình tự phát mạnh ai người ấy được mà phải được hướng dẫn huy động phù hợp với phong tục tập quán cổ truyền. Về việc tiến hành các chương trình trùng tu sửa chữa di tích cũng cần phải được khuyến cáo, hướng dẫn tùy theo mức độ mà tuân thủ các quy trình kỹ thuật cổ truyền, đây chính là điều cốt lõi góp phần bảo tồn giá trị văn hoá phi vật thể. Bảo tồn những cấu kiện vật chất trong kiến trúc di tích đòi hỏi phải được tiến hành theo quy trình khoa học chuyên ngành, tôn trọng kinh nghiệm và thao tác dân gian đảm bảo chất liệu cổ truyền; song điều cực kỳ quan trọng là bảo tồn các sinh hoạt thuộc đời sống tinh thần, thuộc quan hệ ứng xử… gắn bó mật thiết với di tích, ấy là những giá trị văn hoá phái sinh, cái thần ở bên trong di tích, toát ra từ di tích qua quá trình giao lưu giữa con người với di tích.

Bốn là: Cần có chế độ riêng đối với di tích đã được xếp loại như vấn đề thuế nhà và thuế đất mà di tích phải thực hiện. Vấn đề chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chuyển giao quyền sở hữu trên di tích cũng cần phải được hướng dẫn riêng, đảm bảo lợi ích hài hòa của chủ nhân di tích và cộng đồng xã hội.

Năm là: Xây dựng dư luận xã hội theo hướng bảo tồn di tích cảnh quan Huế là đảm bảo lợi ích văn hoá của cộng đồng, việc khai thác lợi ích kinh tế phải nhất thiết dừng lại ở ngưỡng cho phép; không được khai thác với bất cứ giá nào. Vấn đề đặt ra là phải có một hành trang pháp lý và một quy trình khoa học được nghiên cứu nghiêm túc, đồng thời phải được thi hành đầy đủ trong quá trình khai thác giá trị kinh tế từ di tích.

Tóm lại, di tích cảnh quan Huế là niềm tự hào của người Huế, là giá trị văn hoá của toàn xã hội, do đó tất cả mọi người đều có quyền hưởng thụ, và vì vậy mà tất cả mọi đều có trách nhiệm bảo tồn. Phải khẩn trương chuyển đổi cách sống BẰNG di tích sang cách sống VỚI di tích đã từng được các lớp người đi trước vun bồi xây dựng. Những thế kỷ trước đây, trong hoàn cảnh một nền kinh tế nông nghiệp chưa phát triển, chính cha ông chúng ta đã giúp công, góp của, góp sức, góp cả tâm tư tình cảm và trí tuệ để làm nên quần thể di tích cảnh quan Huế, hà cớ gì ngày nay chúng ta lại không làm tốt công tác bảo tồn để phát huy giá trị ấy trong cuộc sống đương đại. Đây cũng là vấn đề cấp bách trong sự nghiệp xây dựng một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vậy.


Huế, lập thu Mậu Dần, 1998
H.Đ.K
(119/01-99)


 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN QUYẾNTrong quá trình đi điền dã thu thập tư liệu Hán Nôm ở huyện Phú Lộc Thừa Thiên Huế, chúng tôi đã được tiếp cận hai đạo sắc phong cho người có công trị thủy ở từ đường dòng họ Lê Kim, thôn Đông, làng Bàn Môn, xã Lộc An.

  • PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.

  • LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT

  • LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…

  • NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...

  • HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.

  • BEATRICE KALDUN         (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.

  • PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.

  • PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN MỄ                    (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.

  • LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.

  • NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.

  • PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.

  • PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...

  • BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm  một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.