Di sản văn hóa thế giới - Di tích cố đô Huế - 10 năm nhìn lại

15:20 25/06/2009
LƯU TRẦN TIÊUHiếm có một miền đất nào mà ở đó những giá trị văn hóa lại đậm đặc, phong phú, đa dạng và đặc sắc như ở Huế. Từ góc nhìn địa - chính trị - văn hóa, xứ Huế xưa như là một vị trí chiến lược trọng yếu, vừa là cầu nối, vùng đất mở, vừa là nơi diễn ra sự chồng lấn, dung hợp, tiếp biến các vùng văn hóa, các dòng văn hóa để tạo dựng thành một trung tâm văn hóa trên cái nền chung của văn hóa Việt Nam, lóng lánh những nét riêng đặc sắc của mình.

Huế là Kinh đô xưa duy nhất còn lại ở nước ta với sự hiện diện của một quần thể khá hoàn chỉnh các công trình kiến trúc cung điện, thành quách, lăng tẩm, đền miếu..., cùng với những thiết chế hoạt động cung đình và dân gian chứa đựng một kho tàng đồ sộ về văn hóa vật chất và tinh thần, hài hòa, nhuần nhụy trong môi trường cảnh quan đến mức tuyệt diệu, đúng như lời của cựu Tổng Giám đốc UNESCO, ngài M'Bow đã nhận xét: "Huế là một kiệt tác thơ về kiến trúc đô thị". Chính vì thế chúng ta không bất ngờ khi được tin tại phiên họp lần thứ 17 của Ủy ban Di sản Thế giới tổ chức tại Cartagena ngày 11 tháng 12 năm 1993, Quần thể Di tích Cố đô Huế được chính thức ghi nhận là địa danh thứ 410 trong Danh mục các Di sản Thế giới được UNESCO công nhận.

Mười năm nhìn lại, chúng ta vui mừng nhận thấy công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa Huế đã có những bước tiến khá xa so với quỹ thời gian vật chất mà nó có.

Trước hết vẫn là bước tiến về nhận thức. Đã có một thời di tích Huế gần như bị lãng quên, chỉ còn là sự hoài niệm hoặc xót xa cho vẻ hoang tàn, không còn sức sống của nó. Nhưng nay đã khác rồi, di sản văn hóa Huế đã trở thành niềm tự hào và sự quan tâm chung của người dân xứ Huế, người dân Việt Nam, bởi tầm giá trị toàn cầu nổi bật của nó, bởi công sức, tiền của và tài năng của những nhà chuyên môn, những người thợ, những nhà quản lý và những người yêu Huế bỏ ra cho việc bảo tồn di tích Huế đã được trả công xứng đáng: Hơn 80 công trình di tích và cơ sở hạ tầng có mức độ hư hỏng khác nhau đã được tu bổ, diện mạo Quần thể Di tích Huế dần dần được hiện ra. Kết quả của những nỗ lực không mệt mỏi của chúng ta là cơ sở để Kỳ họp lần thứ 9 Nhóm Công tác Huế -UNESCO tháng 2 năm 1998 đưa ra nhận định: "Di sản văn hóa Huế đã vượt qua giai đoạn cứu nguy khẩn cấp và đang đi dần vào công cuộc bảo tồn vững chắc". Di sản văn hóa Huế đang thu hút ngày một nhiều khách tham quan (từ hơn 200.000 người năm 1993 đến hơn 1,3 triệu người năm 2002) và doanh thu từ di tích đã tăng một cách đột biến (từ hơn 4 tỷ đồng năm 1993 đến gần 34 tỷ năm 2002). Việc bảo tồn và phát huy Di sản Văn hóa Huế không còn là việc riêng của những người làm công tác văn hóa mà trở thành trách nhiệm chung, sự quan tâm chung của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể và cộng đồng. Thực tế hoạt động của di tích Huế cho thấy, đầu tư cho văn hóa, cho di tích chính là đầu tư cho phát triển; di sản văn hóa không những là tài sản tinh thần vô giá đối với đất nước mà còn là một nguồn lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội bền vững.

Huế cũng là địa phương đi đầu trong việc tiếp cận với cách nhìn mới về hoạt động bảo tồn. Thay vì bảo tồn đơn lẻ đối với từng di tích, khái niệm bảo tồn mới tập trung bảo tồn diện mạo tổng thể của văn hóa, cả những giá trị vật thể và phi vật thể, bảo tồn cả môi trường cảnh quan, giải quyết một cách hài hòa giữa việc bảo tồn và phát huy di tích với quyền lợi và nghĩa vụ của cộng đồng cư dân cư trú trong khu vực xung quanh di tích thông qua quy hoạch và kế hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.

Những nhà quản lý và chuyên môn về bảo tồn di tích Huế đã rất thành công trong việc khai thác những lợi thế riêng có của mình để tạo nên sự sinh động, hiệu quả hoạt động trong môi trường di tích. Việc phục hồi Nhà hát Hoàng cung, phục hồi các môn nghệ thuật truyền thống như Nhạc cung đình, Tuồng cung đình, Múa cung đình và Lễ hội cung đình Huế là một ví dụ. Đi xa hơn, việc tổ chức sản xuất các vật liệu truyền thống như ngói thanh lưu ly, hoàng lưu ly; từng bước bảo tồn các ngành nghề thủ công truyền thống như nghề chạm khảm, nề ngõa, điêu khắc, hội họa, lắp ghép sành sứ, sơn thếp, đúc đồng truyền thống... không chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu kỹ thuật và mỹ thuật trong công tác bảo tồn di tích Huế mà còn tạo ra được những sản phẩm văn hóa truyền thống phục vụ du lịch bền vững, góp phần tạo công ăn việc làm cho nhân dân, gắn bó người dân với di sản văn hóa.

Trong một thời gian không dài, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã thiết lập được hơn 200 bộ hồ sơ khoa học; ghi chép, phiên âm dịch nghĩa hơn 6.000 đơn vị văn tự chữ Hán; tổ chức hơn 10 cuộc hội thảo khoa học; xuất bản gần 25 công trình về di tích Huế, là một cố gắng, một kết quả đáng trân trọng, chưa có một khu di tích nào ở nước ta làm được như vậy.

Cũng khó tìm thấy một di tích nào ở nước ta lại hội tụ được nhiều tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia tu bổ hoặc giúp đỡ về tài chính như ở di tích Huế. Chúng ta luôn gặp ở đây những chuyên gia về các lĩnh vực khác nhau từ Thủ đô Hà Nội, những người thợ lành nghề của các địa phương đồng bằng Bắc Bộ và miền Trung. Chúng ta đã học được nhiều kinh nghiệm quý về công tác tu bổ của các chuyên gia Ba Lan ở di tích Thế Miếu, của các chuyên gia Nhật ở các di tích Hữu Tùng Tự; về kỹ thuật phục hồi tranh tường ở cung An Định của chuyên gia Đức; về phương pháp bảo tồn thích nghi của các chuyên gia vùng Lille (Pháp) ở ngôi nhà di sản 73 Lê Thánh Tôn; về phương pháp điều tra, vẽ ghi những ngôi nhà ở truyền thống và phương pháp nghiên cứu, phục hồi điện Cần Chánh của Đại học Waseda (Nhật Bản); phương pháp chống mối mọt của các chuyên gia tổ chức Rhône Poulenc (Pháp) ở di tích Hiển Lâm Các...

Thời gian đã cho chúng ta lòng quyết tâm và sự tự tin vào khả năng bảo tồn và phát huy giá trị với hiệu quả cao Di sản Thế giới được UNESCO công nhận lần đầu tiên ở nước ta - Di tích Cố đô Huế. Thời gian đã khẳng định những kết quả to lớn mà chúng ta đạt được, nhưng đồng thời cũng chỉ ra những gì mà những nhà quản lý, nhà chuyên môn, những người thợ trực tiếp thực hiện việc bảo tồn di tích quan trọng này cần rút kinh nghiệm kịp thời để đáp ứng những yêu cầu cao hơn, đạt được những kết quả toàn diện hơn, vững chắc hơn so với 10 năm đã qua.

Hoạt động bảo tồn - tôn tạo di tích lịch sử - văn hóa đòi hỏi trình độ chuyên môn, trình độ kỹ thuật và tay nghề cao; không chỉ đòi hỏi những kiến thức về lịch sử, về mỹ thuật, mà còn cần tâm huyết, lòng kiên trì nhẫn nại, sự cẩn trọng của những người thực hiện bảo tồn di tích. Nó cũng rất cần lời động viên, tính khách quan và sự chia sẻ của công luận.

Đối với Quần thể Di tích Cố đô Huế, độ phức tạp và khó khăn trong công tác bảo tồn vượt xa những di tích khác ở nước ta. Ở đây không chỉ hiện diện với số lượng khổng lồ những công trình cần tu bổ (hơn 300 công trình), không chỉ khó khăn về mặt tư liệu, mà những yêu cầu cao về mặt kiến thức, kỹ thuật, tay nghề đối với các đối tượng bảo quản với những chất liệu rất khác nhau như gỗ, gạch, đá, sơn thếp, sành sứ, vật liệu xây dựng... còn là một thử thách không nhỏ đối với chúng ta. Tất cả những vấn đề nêu trên cần được tổ chức nghiên cứu và đánh giá việc ứng dụng các công nghệ truyền thống và hiện đại trong việc bảo tồn di tích Cố đô Huế. Đó là công nghệ ngâm tẩm gỗ trước khi lắp dựng, phục hồi các chi tiết gỗ nguyên gốc; công nghệ chống mục cho các kết cấu gỗ do dẫn ẩm từ nền lên và chống thấm trên mái; công nghệ sơn thếp truyền thống phù hợp với điều kiện khí hậu Huế; công nghệ vật liệu xây dựng gạch (gạch, ngói, vữa xây và trát); công nghệ khảm sành sứ. Công tác bảo quản, phục hồi các tranh tường, mẫu tự Hán cổ - những "ô thơ" trên di tích Huế, cũng cần được quan tâm đúng mức.

Đi đôi với công tác nghiên cứu và kiểm định trên thực tế những công nghệ hiện đại, công nghệ truyền thống đã và đang được áp dụng trong công tác tu bổ ở các di tích Huế, cần tổ chức các hình thức đào tạo, truyền nghề; có cơ chế phù hợp để huy động sự tham gia vào công tác tu bổ và truyền dạy của các nghệ nhân cho thế hệ trẻ. Thành lập một đội thợ ổn định, có tay nghề cao và nhiều kinh nghiệm tiến hành duy tu, bảo dưỡng thường xuyên và định kỳ các di tích đã được tu bổ. Có như vậy mới kéo dài được tuổi thọ của công trình.

Trong quá trình tổ chức triển khai việc bảo tồn - tôn tạo một di tích, cần phân công hoặc hợp đồng với một chuyên gia có trình độ chuyên môn cao thực hiện trách nhiệm như là người giám sát, thường xuyên có mặt trên công trường để theo dõi, kiểm tra việc thi công, chỉnh sửa những chi tiết làm chưa chuẩn xác; đồng thời ghi chép thành tài liệu nghiên cứu, rút kinh nghiệm về sau. Sau khi kết thúc việc tu bổ một công trình, cần công bố kết quả của sản phẩm thi công để nhân dân biết và đánh giá. Đây cũng là một hình thức dân chủ hóa trong hoạt động bảo tồn di sản văn hóa.

Thay mặt Nhóm Công tác Huế - UNESCO, xin nhiệt liệt chúc mừng những kết quả to lớn về nhiều mặt mà tỉnh Thừa Thiên Huế, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã đạt được trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị Di sản Thế giới - Di tích Cố đô Huế. Với tình yêu đối với Huế, chúng ta tin rằng Di sản Văn hóa Huế trường tồn với thời gian, lan tỏa rộng hơn trong không gian, trở thành điểm hẹn có sức cuốn hút đối với nhân dân mọi miền đất nước và bè bạn quốc tế, góp phần xứng đáng vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam.

L.T.T

(178/12-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN VĂN QUYẾNTrong quá trình đi điền dã thu thập tư liệu Hán Nôm ở huyện Phú Lộc Thừa Thiên Huế, chúng tôi đã được tiếp cận hai đạo sắc phong cho người có công trị thủy ở từ đường dòng họ Lê Kim, thôn Đông, làng Bàn Môn, xã Lộc An.

  • PHAN THANH HẢIDưới thời quân chủ, hầu như ở tất cả các nước phương Đông đều có tục tế giao. Tế giao tức là tổ chức nghi lễ cúng để con người có thể giao tiếp được với trời, đất và các bậc thần linh.

  • LÊ NGUYỄN LƯUI. QUAN NIỆM VỀ SỐNG CHẾT

  • HUỲNH ĐÌNH KẾT

    Di tích cảnh quan Huế là một bộ phận cấu thành diện mạo văn hoá Huế. Ngày nay, di tích cảnh quan được quan niệm là loại hình văn hoá vật thể (Tangible culture) trong hàm nghĩa phân biệt với văn hoá phi vật thể (Intangible culture). Dẫu sao cũng chỉ tương đối.

  • LIỄU THƯỢNG VĂNCố đô Huế, một trong những trung tâm văn hoá, lịch sử của Việt Nam. Không những thế, Huế còn là một tổng thể di tích quan trọng, sánh hàng kì quan trên thế giới. Cố đô thơ mộng mang đầy tính nghệ thuật lẫn với cái nét sâu thẳm, ẩn bóng của học thuật Đông phương và truyền thống dân tộc…

  • NGUYỄN HÀO HẢITrong lịch sử, việc làm những đồ nghệ thuật giả chỉ bắt đầu xuất hiện ở những xã hội có đời sống kinh tế, đời sống văn hóa tinh thần khá phát triển.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNChuyện xưaGiờ đây, những vị tham gia biên dịch Mục lục Châu bản Triều Nguyễn (MLCBTN) trong Uỷ ban phiên dịch sử liệu Việt Nam thuộc Viện Đại học Huế những năm sáu mươi của thế kỷ trước, đã lần lượt quy tiên. Chỉ còn lại một người cuối cùng đang dưỡng lão trong một ngôi nhà khá yên tĩnh dưới bóng những lùm cây sớm chiều toả mát trong một xóm ven sông Cẩm Lệ, thuộc huyện Hoà Vang, ngoại ô Đà Nẵng. Đó là bác Ngô Văn Lại, năm nay ngoài tuổi bảy mươi.

  • NGUYỄN HỮU THÔNGCó những câu hỏi đặt ra, Huế mãi không có câu trả lời thuyết phục:* Tại sao mặt hàng lưu niệm trong thị trường du lịch, trong các lễ hội Festival là nghèo nàn đến thế! Sản phẩm thủ công Huế lác đác chen chúc khuất lấp trong lớp lớp hàng Trung Quốc và các tỉnh khác trong nước?* Tại sao trong quá trình trùng tu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lại phải mời thợ từ "Đàng Ngoài" trong nhiều khâu kỹ thuật từ sơn, thếp, mộc, làm ngói men, gạch bát tràng...?* Tại sao nhà phục chế Trịnh Bách lại phải sống ở Hà Nội, để gửi vào Huế những tấm long bào, long cổn, hia, mão và kể cả những phiên bản phục chế men lam thời Nguyễn?...

  • HOÀNG ĐẠO KÍNHVăn hoá xứ Huế là một hiện tượng: sinh sôi và thịnh vượng trong khoảng thời gian và không gian địa lý hạn hẹp. Cả hai nhân tố, vật thể lẫn phi vật thể, đều kịp đạt đến trình độ cao và thấm đậm những cái riêng, so với các thời kỳ lịch sử trước đó và so với các miền đất khác. Di sản văn hoá xứ Huế không chỉ phong phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái duy nhất.

  • BEATRICE KALDUN         (Nhân viên chương trình Văn hoá của UNESCO tại Bangkok)Xin chào quý vị đại biểu!Hôm nay, tôi xin bày tỏ sự vui mừng khi có mặt tại đây, đại diện cho Ngài Richard Engelhardt, Cố vấn Văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương tham gia cuộc Hội thảo về vấn đề bảo tồn và phát triển hội nhập của Huế, một trong những di sản quý giá nhất của Việt Nam và Thế giới.

  • PHAN THUẬN ANSự quan hệ công tác giữa UNESCO với Việt Nam đã bắt đầu có từ hơn 50 năm về trước. Nhưng, sự hợp tác chặt chẽ để mang lại những hiệu quả thiết thực và hữu ích cụ thể thì chỉ mới diễn ra trong vòng vài chục năm trở lại đây. Ủy ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và Bộ Văn hóa Thông tin nước chủ nhà đã đóng góp những vai trò xúc tác quan trọng trong mối quan hệ làm việc giữa tổ chức UNESCO đóng tại Paris và các quan chức Việt Nam ở những tỉnh có di sản văn hóa và di sản thiên nhiên nổi bật.

  • PHAN TIẾN DŨNGHuế một vùng non sông kỳ tú, với sự sáng tạo của con người đã lưu giữ trong lòng mình những tài sản vô cùng quý giá. Một trong những giá trị nổi bật mang tính toàn cầu là Quần thể Di tích Huế đã được công nhận vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới (World Heritage List) ngày 11-12-1993. Bên cạnh đó, Huế còn là hội điểm về những di sản vật thể vừa phong phú vừa đa dạng. Từ mảnh đất này đã hình thành nên những phong cách, tạo nên nhiều loại hình nghệ thuật, đã sinh thành nhiều tài năng, đã hội tụ nhiều danh nhân để góp phần nên một Huế vừa mang đặc trưng bản sắc Việt Nam, vừa có sắc thái riêng của một vùng đất Cố đô.

  • NGUYỄN VĂN MỄ                    (Trích)Huế - thành phố lịch sử, một trung tâm văn hóa du lịch, là vùng đất có bề dày văn hóa với những tầng văn hóa khác nhau: di chỉ Khảo cổ học thời Tiền, Sơ sử; các dấu tích của văn hóa Sa Huỳnh; văn hóa Chămpa; văn hóa Đại Việt... và vô cùng quan trọng là hệ thống di tích Cố đô được xây dựng dưới vương triều Nguyễn.

  • NGUYỄN QUỐC HÙNGNăm nay, chúng ta kỷ niệm 10 năm Quần thể Di tích Kiến trúc Huế được ghi vào Danh mục Di sản Văn hóa Thế giới của UNESCO, 10 năm với rất nhiều thành tựu đổi thay. Nhớ lại chỉ sau 5 năm trở thành Di sản Văn hóa Thế giới, Tiến sĩ Richard Engelhardt chuyên gia về văn hóa khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNESCO đã mạnh dạn tuyên bố: “tình trạng cứu nguy khẩn cấp của khu di tích Huế đã qua đi” và “chúng ta chuyển từ giai đoạn khẩn cấp sang giai đoạn ổn định trong chiến dịch vận động bảo tồn di tích Huế”(1)

  • NGUYỄN KHOA ĐIỀMTrong các di sản văn hoá ở nước ta, Huế giữ một vị trí đặc biệt. Chính vì thế mà ngay sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, giữa bộn bề công việc, Đảng và Nhà nước ta vẫn dành cho di sản văn hoá Huế sự quan tâm thích đáng. Dù chưa tập hợp được hồ sơ đầy đủ, chưa có được nguồn kinh phí thoả đáng, nhưng từ năm 1979, Nhà nước ta đã có văn bản đặc cách quy định việc bảo vệ di tích thành nội Huế.

  • PHÙNG PHUCách đây vừa tròn 10 năm, ngày 11 tháng 12 năm 1993 đã đánh dấu một sự kiện quan trọng đối với Huế và với cả nền văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đô Huế đã chính thức được UNESCO ghi tên vào danh mục Di sản Văn hoá Thế giới với dòng chữ “Ghi tên vào danh mục này là công nhận giá trị nổi bật toàn cầu của một tài sản văn hoá hoặc thiên nhiên để được bảo vệ vì lợi ích của nhân loại”. Lịch sử vùng đất Phú Xuân- Huế với Di sản Văn hóa Thế giới đầu tiên của Việt Nam mở ra một trang mới, giang rộng vòng tay đón bè bạn trong và ngoài nước đến tham quan, nghiên cứu và truyền đạt kinh nghiệm trong công việc bảo tồn và phát huy giá trị.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSau Hiệp định Paris năm 1973, Thành uỷ Huế chủ trương phải xây dựng thêm các tổ chức cách mạng biến tướng để tập hợp lực lượng trí thức, văn nghệ sĩ, sinh viên ở nội thành; tạo cho được những hoạt động công khai, hợp pháp nhằm thu hút quần chúng ở vùng địch tạm chiếm hướng đến mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, đòi dân sinh, dân chủ, tiến tới đòi thi hành Hiệp định Paris.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCCách đây gần tròn 50 năm, từ Đại hội Anh hùng Chiến sĩ Thi đua lần thứ 3 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động chiến dịch “Vì miền Nam ruột thịt”. Thực hiện chủ trương nầy, năm 1957 Bộ Văn hoá và Thư viện Quốc gia Việt Nam đã chính thức chỉ đạo 26 thư viện các tỉnh và thành phố ở miền Bắc xây dựng trong lòng mỗi thư viện một “Thư viện Kết nghĩa” vì miền Nam ruột thịt theo quan hệ kết nghĩa giữa các tỉnh, thành Bắc-Nam.

  • PHAN THANH HẢISông Hương là báu vật mà trời đất đã ban tặng cho Huế. Đã tự bao giờ, sông Hương đã được xem là dòng sông của thi ca, nhạc họa, của kiến trúc, nghệ thuật xứ Huế. Đã có nhà văn từng thốt lên: “Nếu một ngày nào đó sông Hương đột nhiên biến mất, thì Huế có còn là Huế nữa không?!”...

  • BỬU ÝMột đất nước có lịch sử lâu đời hẳn nhiên thừa hưởng di sản phong phú và đủ loại.Trước hết, vấn đề di sản không nhất thiết đi đôi với Festival. Di sản có thể nằm  một cõi, mà Festival lại nằm một nơi. Cũng có thể phát huy riêng rẽ, phục vụ quần chúng khác nhau, nhưng cùng chung một trục văn hoá để cùng được bảo tồn và phát huy. Nhưng nếu di sản sánh đôi với Festival thì đó là một cuộc nên duyên như được dành sẵn.