Di sản mộc bản đang tiêu tán từng ngày…

15:31 14/08/2015

Theo họa sĩ, nhà nghiên cứu Lê Quốc Việt, hoàn cảnh lịch sử cùng cách bảo tồn còn hời hợt khiến những kho mộc bản quý giá một thời đang ngày càng mai một và im lìm.

Nhà nghiên cứu/họa sĩ Lê Quốc Việt đang khắc tranh lấy cảm hứng từ phương thức in mộc bản tại Bảo tàng Văn minh Châu Á tại Singapore năm 2009. Ảnh: ACM

Với giới nghiên cứu văn bản, mộc bản có vai trò rất quan trọng bởi với một tác phẩm, mộc bản là cơ sở đối chiếu, so sánh với các phiên bản được in hoặc chép tay sau này. Mộc bản cũng giống như bản gốc của một quyển sách, là tổng hòa của nhiều giá trị. Bên cạnh những giá trị nội dung về tôn giáo, triết học, lịch sử và văn học…, nó còn phản ánh cả một nền văn minh vật chất.

Có thể chia hệ thống tàng bản1 làm ba loại: tàng bản của triều đình, tàng bản của tư nhân và tàng bản của tự viện. Do tác động của lịch sử, những tàng bản của triều đình và tư nhân đã tiêu tán. Hiện nay chỉ còn tàng bản của tự viện là được bảo vệ với số lượng tương đối lớn. Xưa nay, trong giới Phật giáo, người ta coi tàng bản là pháp bảo, bên cạnh hai vật báu khác là Phật bảo và Tăng bảo. Pháp bảo – hay những lời dạy của Phật, bao gồm kinh văn, giáo lý nhà Phật - được lưu giữ thông qua sách hoặc ván in.

Tuy nhiên, do sự dịch chuyển từ việc sử dụng chữ Hán Nôm sang chữ Quốc ngữ dưới tác động của chương trình Bình dân học vụ vào năm 1945, những kinh văn, giáo lí nhà Phật hiện nay đều được viết và truyền bá bằng chữ Quốc ngữ. Vô tình điều này đã tạo ra sự lãng quên, sa mạc hóa nhiều kho tác phẩm Hán Nôm vốn một thời được coi là pháp bảo. Với đa số những người xuất gia không sử dụng chữ Hán, kho mộc bản từng rất hữu ích giờ chỉ là những di cảo đã “chết”, dùng để thờ, để bầy chứ không còn được sử dụng nữa. Thậm chí, không ý thức được giá trị của các mộc bản, qua những biến động về kinh tế-xã hội, nhiều nơi đã chẻ ra làm củi hay để mối, mọt.

Ngay cả những nhà chùa biết chữ Hán, hiểu những mộc bản mình đang lưu giữ là pháp bảo cũng không thể giúp chúng “sống” lại vì họ không còn sử dụng công nghệ in cũ. Công nghệ in mới đã dẫn đến sự phá sản của tất cả những làng nghề thủ công truyền thống từ nghề làm giấy, làm mực cho đến nghề khắc in. Vì vậy, những nghệ nhân biết khắc chữ và đóng sách theo lối cổ hiện chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Với điều kiện khí hậu nóng ẩm ở Việt Nam cùng việc thiếu ý thức bảo quản và sử dụng, những mộc bản cũng như những quyển sách không bao giờ được giở cứ im lìm, bị phủ bụi và bị mối mọt khiến di sản này tiêu tán hằng ngày.

Trong bối cảnh đó, giới nghiên cứu lại được đào tạo theo kiểu “bút sắt”, thiếu mẫn cảm khi tiếp xúc với thư tịch cổ. Một hạn chế phổ biến của họ là tước văn bản khỏi bối cảnh của nó. Ví dụ, khi tìm hiểu một thư tịch cổ trong tay, họ chỉ xem tác phẩm này viết gì, tập trung phân tích về mặt nội dung chứ hoàn toàn bỏ qua nơi đã xuất bản ra nó. Tên nhà in được ghi trên các đầu sách không khiến họ tò mò về nhà in đó ở đâu, đã xuất bản những đầu sách nào, số lượng bao nhiêu, quy trình in ra sao. Bỏ quên bối cảnh trong tìm hiểu văn tự cũng giống như nghiên cứu một xác chết mà bỏ qua môi sinh của nó. Phương pháp nghiên cứu phiến diện hiện nay đã tạo ra những luận án, dự án hời hợt, chưa thực sự chạm vào những giá trị cốt tủy của di sản. Tôi e đó chỉ là cách làm đối phó trong việc bảo tồn hệ thống mộc bản. Chính vì vậy, các cơ quan, viện nghiên cứu mới chỉ bảo quản được về mặt vật thể bằng cách xây dựng những kho lưu trữ để hút ẩm, khô ráo chứ chưa tạo điều kiện để những di sản có thể phát huy những giá trị về mặt vật thể và phi vật thể, điển hình là những kĩ nghệ thủ công từng có mối quan hệ mật thiết với nguồn gốc của những mộc bản không hề được ghi lại hay bảo lưu và những người có nhu cầu nghiên cứu, yêu thích Hán Nôm cũng chỉ được tiếp cận những kho mộc bản trong các thư viện một cách hạn chế.


Hiện tại phải xác nhận một thực tế đó là, dẫu nỗ lực của Viện nghiên cứu Hán Nôm và các thư viện quốc gia, tỉnh và các tự viện có ý thức lưu giữ ván và sách nhưng hai cái đó không khớp nhau (tức là ván và sách đều thiếu, không thể tập hợp lại thành một bộ kinh nguyên vẹn). Người ta có thể phục hồi vật chất chứ không thể khôi phục được giọng văn, cách viết của thời xưa, nhất là khi những mộc bản đó lại là độc bản và thời điểm ra đời cách đây nhiều thế kỉ. Trong quá trình nghiên cứu, nhiều khi tôi gặp tình trạng đau xót là tác phẩm chỉ còn lại mấy ván in (tương đương với vài ba trang sách). 

Bên cạnh đó, do không nắm được kĩ nghệ in truyền thống và cũng không tham vấn các chuyên gia, một số học giả đã trực tiếp góp phần hủy hoại những di sản vừa được tái khám phá. Họ dùng sơn phết lên những mộc bản để in lại nội dung những tác phẩm thay vì phết mực như lối cổ. Những ván in bị két sơn, không rửa được nên không thể in chữ được nữa. Kho mộc bản ở chùa Vĩnh Nghiêm (Bắc Giang) gồm hơn 3.000 ván in vừa được UNESCO ghi nhận là di sản ký ức đã bị hỏng hoàn toàn, không còn sử dụng được. Cách đây chưa lâu, bảo tàng của tỉnh Bắc Giang cũng áp dụng lối “in sơn” làm hỏng hơn 2.000 ván của chùa Bổ Đà. Ngoài hai kho mộc bản kể trên, kho ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm và kho ở chùa Hoa Lâm (Khê Hồi, Thường Tín) cũng đã bị “phá hủy” với lối in không đúng cách.

Sự giàu nghèo của di sản là do thái độ của cộng đồng. Quan trọng nhất là tất cả các cá nhân, tập thể cần phối hợp với nhau, cảnh tỉnh, đánh động trước nguy cơ di sản biến mất và tái phục hồi chúng. Với những kĩ nghệ truyền thống, cần quay video, nghiên cứu và ghi chép cẩn thận để thế hệ sau này muốn tìm hiểu, nghiên cứu có thể dựa vào đó để phục hồi. Giống như ở các nước phương Tây, những kỹ nghệ truyền thống có thể mất đi nhưng không bị thất truyền vì chúng đều được ghi chép lại cẩn thận. Giới nghiên cứu hoàn toàn có thể căn cứ vào hình ảnh, phim tư liệu, diễn giải để khôi phục lại một kỹ nghệ. Hơn nữa, các nghiên cứu và tư liệu nên được công bố cho những người có nhu cầu nghiên cứu tiếp cận chứ đừng để chúng bị “biển thủ” thành tài sản của cá nhân hoặc cơ quan. Bên cạnh đó, không nên nghĩ rằng, việc gìn giữ di sản là việc của những cơ quan bảo tồn, lưu trữ, việc của ngành tôn giáo mà bất cứ ai cũng cần có thái độ và ứng xử đúng đắn với di văn của tổ tiên, dù không thể làm nó “sống lại”, cũng cần bảo quản để nó có thể phát huy được giá trị tối thiểu. 


Để in một bộ kinh gồm hàng chục đến hàng trăm quyển, ngoài quy mô của triều đình thì khó ngôi chùa nào có thể đảm trách hết được. Chính vì thế, họ thường phân công mỗi chùa khắc in từ một đến vài quyển rồi trao đổi với nhau. Quy trình công nghệ in cổ ở các tự viện bao gồm những bước sau:

Khi một tác giả hoàn thành bản thảo, nhà chùa sẽ thuê một người thợ viết chữ sao chép lại bằng một phông chữ thông dụng và dễ khắc nhất, đồng thời dàn lại dòng, trang đảm bảo số lượng chữ trên mỗi trang đều bằng nhau. Bên cạnh đó, nhà chùa cũng cử ra một hội đồng kiểm duyệt gồm khoảng bốn người, là những bậc hòa thượng, đại sư đắc đạo để kiểm duyệt sao cho đúng với Kinh Phật.

Qua bước này, nhà chùa có thể tính được số lượng ván, số lượng giấy in và từ đó ước lượng số tiền cần chi. Sau đó, thợ mộc sẽ xẻ ván và ngâm trong nhiều năm để tránh mối mọt (ván thường được làm bằng gỗ thị vì loại gỗ này dẻo và mềm nên dễ khắc) và họ bào sẵn, phơi khô. Sau đó, họ dán các trang giấy lên ván gỗ (khổ ván bằng đúng khổ giấy) bào phần không có chữ đi, nhờ vậy mà chữ nổi lên. Một ván gỗ thường được khắc hai mặt, tương đương hai trang sách.

Sau khi in xong thì họ xếp trang, xén, đóng gáy, phết sơn ta vào gáy sách cho chắc, làm cậy (bìa cứng), đóng cậy và hoàn thiện một vài chi tiết gắn với quyển sách. Sau khi hoàn thiện, sách sẽ được dùng để cúng cầu siêu hoặc phát cho các sư hành trì.
Cả cuốn sách được làm từ những nguyên liệu tự nhiên, thân thiện với môi trường và tiết kiệm tận cùng: chỉ khâu sách tận dụng từ giấy xén thừa xoắn lại, bìa cũng từ giấy viết hỏng rồi phết sơn đỏ xung quanh, sơn ta cũng được khai thác từ một số loại cây.


Theo Hảo Linh - Tia Sáng

***

1 Tàng bản còn đồng nghĩa với nhà in, nhà xuất bản sử dụng lối in khắc gỗ.

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • “Cảnh báo của các nhà khoa học về dự án Bôxít ở Tây Nguyên đang dần đúng. Dự án vẫn được thải bằng công nghệ rẻ tiền, nhiều rủi ro... Nếu làm đến cùng thì bôxít sẽ trở thành gánh nặng kinh tế!”.

  • AN ĐÔNG  

    Khi những hạt mưa cuối cùng của mùa đông đã ngớt trên mặt sông sóng sánh và những vạt nắng đã bắt đầu tràn đến trên đám lá cỏ tơ non, người ta biết từ đâu đó, mùa xuân đã nhẹ nhàng gõ cửa.

  • Đô thị Việt Nam vốn yếu kém về quy hoạch, kiến trúc, chắp vá, lộn xộn, những tưởng những tượng đài sẽ góp phần cải thiện môi trường văn hoá, môi trường đô thị thì ngược lại những tượng đài to, xấu và lệch chuẩn càng góp phần làm cho bộ mặt đô thị trở nên tồi tệ hơn và chắc chắn nó để lại lâu dài nhiều hậu quả xấu về thẩm mỹ, xã hội cho con em, thế hệ trẻ.

  • Vừa qua, ngày 7/1/2013, tại TP. Huế đã diễn ra Hội thảo Quốc gia về “Dạy học Ngữ văn ở Trường phổ thông Việt Nam”. Sau đấy 3 ngày, 10/1/2013, tại Hà Nội, Bộ Giáo dục & Đào tạo và Hội Nhà văn Việt Nam đã ký kết văn bản hợp tác giữa hai cơ quan này về “Phát triển văn học trong nhà trường và nhà trường với văn học giai đoạn 2013-2020”.

  • Sự ra đời của Gangnam style đánh dấu thời điểm mà thị giác nghe nhìn của công chúng nói chung đã có những sự sa sút, mệt mỏi về mặt thẩm mỹ nghệ thuật.

  • Trong 10 năm gần đây, giáo dục Việt Nam có gì đổi mới? Đây là câu hỏi nhức nhối dành cho những nhà làm giáo dục, bao gồm cả những nhà giáo dục uyên thâm, đã từng đăng đàn đề nghị chấn hưng giáo dục.

  • Trong kháng chiến chống Mỹ, cùng với những thắng lợi trên chiến trường miền Nam, miền Bắc không chỉ làm tốt nhịêm vụ hậu phương lớn của cả nước, mà còn đánh bại hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của quân đội Mỹ.

  • PHẠM HỮU THU  

    Ngày 22/12/2010, nhân kỷ niệm 66 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam, ông Lê Trường Lưu, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch tỉnh Thừa Thiên - Huế đã trân trọng trao tấm bằng công nhận Di tích lịch sử cách mạng cho địa điểm Trường Thanh niên Tiền tuyến Huế - 1945 tại 118 đường Lê Duẩn, Huế. Người nhận là ông Đặng Văn Việt, cựu sinh viên của ngôi trường độc đáo này.

  • Hội Nhà báo Thừa Thiên Huế sắp tiến hành Đại hội Hội Nhà báo lần thứ V, nhiệm kỳ 2012 - 2017. Đây là lúc toàn thể các hội viên nhà báo đang tác nghiệp ở Thừa Thiên Huế nhìn lại một chặng đường đã qua, để cùng xác định những việc cần làm trong thời gian đến.

  • Báo chí Thừa Thiên Huế: Nâng cao bản lĩnh chính trị, chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới

    Th.S. PHAN CÔNG TUYÊN
    UVTV, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế

  • MINH KHUÊ - BẢO HÂN

    Sáng ngày 5/9, đại diện các cơ quan báo chí đóng trên địa bàn đã có dịp chia vui với Bệnh viện Trung ương Huế (BVTƯ Huế) và gia đình bệnh nhân Hứa Cẩm Tú, người mà sau 10 lần mổ đến nỗi “người chị Tú không còn máu của chị Tú nữa” xuất viện. Thêm một thành tựu y học đã được xác lập và trở thành một y văn của Việt Nam và thế giới về ghép thận.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG

    "Nói đùa thì nói, nhưng có lẽ sẽ phải mở những loại trường đặc biệt, không hạn chế tuổi cho những người đến nay chưa học được gì ngoài việc "lãnh đạo", để cho bây giờ dù đã tứ tuần, họ vẫn có thể học được một nghề có ích. Phải tổ chức việc đó trên qui mô lớn trong phạm vi cả nước".

  • MINH KHUÊ

    Thời gian gần đây đã xuất hiện tin đồn: Carlsberg đã bán Công ty Bia Huế cho đối tác Trung Quốc, hình tượng 5 ngôi sao trên vỏ lon bia Huda mới giống biểu tượng cờ Trung Quốc và do Trung Quốc sở hữu Bia Huế nên họ đã dùng chất chống say; có chất tiêu diệt tinh trùng, gây hại cho sức khỏe... Thông tin sai lệch này đã gây tâm lý bất an trong xã hội, ảnh hưởng đến sản xuất đến sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH Bia Huế.

  • Tham luận phát biểu của một số tác giả quen biết trong tỉnh tiến tới "Hội nghị thơ miền Trung" do Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên tổ chức năm 1986.

  • NHÂN TÀI, TẢN MẠN NHÌN TỪ HUẾ

    HỒ TRƯỜNG AN

  • ĐỖ KIM CUÔNG 

    1.
    44 năm trước khi mới chỉ là chàng trai 17 tuổi, sốt rét quặt quẹo, nằm trong căn hầm dã chiến thuộc trạm xá tiền phương sư đoàn 324, đặt dưới chân điểm cao 360, bên sông Bồ chịu trận với hàng trăm quả pháo và từng đợt máy bay B57 của không quân Mỹ phá nát rừng Hương Trà, chưa bao giờ trong tôi nẩy ra ý nghĩ một ngày kia mình sẽ viết văn.

  • HỮU THỈNH  

    Đã có lần tôi nói, mỗi lần về Huế, luôn có cảm giác đi dưới bóng mát của các tên tuổi. Đó không phải là câu nói lấy lòng, mà thực sự là một cảm nhận văn hóa.

  • PHAN CÔNG TUYÊN

    Văn học, nghệ thuật là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam, có vai trò quan trọng trong việc “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.

  • LTS: Như tin đã đưa, đầu tháng 4/2012 vừa qua, Liên hiệp các Hội VHNT Thừa Thiên Huế đã tổ chức hội thảo “Văn học nghệ thuật Huế trong dòng chảy văn hóa Huế” ngay tại xứ sở thi ca. Để bạn đọc tiếp cận được tinh thần hội thảo, Sông Hương giới thiệu bài tổng thuật của PV và tham luận trình bày tại hội thảo của nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịnh UBTQ LHCH VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam và của đồng chí Phan Công Tuyên, UVTV - Trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy TT Huế.

  • LÊ CUNG

    Kỷ niệm 55 năm thành lập Đại học Huế (1957 - 2012)