Dị bản một bài thơ hay về Huế

10:43 28/10/2009
PHẠM QUANG TRUNGTôi muốn nói đến bài “ Tạm biệt” (hay “ Tạm biệt Huế”) của nhà thơ Thu Bồn. Dẫu đã có nhiều bài thơ hay, rất hay lấy cảm hứng từ Huế, tôi dám quả quyết là nó sẽ vẫn được nhắc tới như là một trong những bài thơ hay nhất. Xin kể một kỷ niệm đẹp riêng với tôi.

Nhà thơ Thu Bồn - Ảnh: Internet

Dạo tháng 10 năm 1998, tôi có kế hoạch đi dạy ở thành phố biển Nha Trang. Ở chung phòng với tôi là hai cán bộ giảng dạy cùng trường, một là nhà sử học, một là nhà vật lý học. Đó là những ngày trời xấu, gió mưa và biển động mạnh. Ngoài giờ lên lớp, chẳng thể đi đâu, chúng tôi ngồi đàm đạo đủ thứ chuyên. Nhiều nhất vẫn là chuyện văn chương. Tôi rất lạ khi được biết cả hai đồng nghiệp của tôi đều thích những bài thơ viết về Huế của Thu Bồn, đến nỗi họ gần như thuộc lòng từ câu đầu đến cuối câu. Trong khi, tôi, người được coi là “ một chuyên gia” văn học, lại chẳng thuộc hết, thế có buồn không! Phó Tiến sĩ sử học Cao Thế Trình kể, dạo anh còn học ở Liên Xô cũ, có lần các thực tập sinh và nghiên cứu sinh Việt Nam ở Matxcơva mời một số nhà thơ trong nước đang bồi dưỡng ở Trường viết văn mang tên M. Gorki đến trao đổi về văn chương. Trước câu hỏi “ Xin chị đánh giá những sáng tác thơ về Huế”, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ trong tâm sự của mình có ý bảo: Chỉ cần nhắc đến một bài thơ của Thu Bồn là đủ. Một nhà thơ thành đạt lại giàu chất Huế như Lâm Thị Mỹ Dạ đã nói vậy, sao không thể tin cho được. Có lẽ vì thế mà một nhà sử học như anh đã tìm đọc kỹ đến bằng thuộc bài thơ.

Tuy trong trí nhớ của hai bạn đồng nghiệp của tôi có nhiều chỗ không thật trùng khớp nhau lắm. Thế là sinh ra tranh luận. Tôi thấy nhiều câu quả thật khó hiểu, chẳng hạn: “ Nón rất Huế mà đời không phải thế”. Đó là chưa nói tới những trường hợp có vẻ như mâu thuẫn, ví như: “ Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt”. Thế là, do thói quen nghề nghiệp, vừa về tới Đà Lạt, tôi lập tức tìm tư liệu để làm rõ mối hoài nghi của mình. Tôi mở cuốn “ Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên” (Nxb Văn Nghệ T.p Hồ Chí Minh ấn hành năm 1992) ra xem. Ở trang 32 tập thơ có bài “ Tạm biệt Huế” của Thu Bồn. Đọc xong, tôi thầm khâm phục trí nhớ, đúng hơn là tình yêu thơ của các bạn đồng nghiệp không cùng chuyên ngành với tôi. Nghĩ mà thấy thêm yêu cái nghề mình đã chọn lựa để hiến thân. Văn chương được nhiều người hoạt động ở những lĩnh vực khác nhau quan tâm, phải thấy đó là nỗi an ủi, khích lệ lớn cho những người làm văn chương. Gần như cùng một ngày,tôi nhận được Tạp chí Sông Hương tháng 11/ 1998. Trong mục ‘ Văn học và Nhà trường” tôi thấy đăng lại bài thơ của Thu Bồn với tiêu đề “ Tạm biệt” cùng lời bình của Trinh Đường. Tôi đọc và thấy không chỉ có tên bài thơ mà 2 bản in có nhiều chỗ khác biệt nhau. Xin được dẫn ra 3 chi tiết đáng lưu ý hơn cả:

Bản đầu: (a)
1a         Xin chào Huế một lần anh đến
            Để ngàn lần anh nhớ hư vô
2a         Nhịp cầu cong và con đường thẳng
            Một đời anh đi mãi chẳng về đâu
3a         Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt
            Hải Vân ơi xin người đừng tắt ngọn sao khuya.

Bản sau: (b)
1b         Xin chào Huế một lần anh đến
            Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
2b         Nhịp cầu cong và con đường thẳng
            Một đời anh tìm mãi Huế nơi đâu
3b         Tạm biệt Huế với em là tiễn biệt
            Hải Vân ơi xin đừng tắt ngọn sao khuya

Có lẽ bản sau đã được nhà thơ Trinh Đường biên tập, sửa chữa để đưa vào tuyển “ Thơ Việt thế kỷ 20” chăng? Tôi không có ý định bàn xem bản nào hay bản nào dở mà chỉ muốn giải thích bản đầu theo cách hiểu của riêng tôi. Bài thơ vừa là lời tạm biệt cố đô vừa là lời từ biệt cố nhân (trong bản đầu tác giả đề tặng C, một người cụ thể). Tình riêng và tình chung hòa quyện đến mức khó tách rời. Tôi cho đấy là cái tài của nhà thơ tạo ra cái tầm của bài thơ. Thử đặt một giả thiết nếu chỉ có cái riêng thôi thì sao có nỗi những dòng thơ thăm thẳm ý nghĩa xã hội này:

            Con sông dùng dằng con sông không chảy
            Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu

Cũng vậy, chính cái riêng đã tiếp sức cụ thể cho cái chung làm nên sự ngỡ ngàng đến ngây ngất trong lòng người đọc ở câu:

            Mặt trời lên từ phía nón em nghiêng

Đó là những câu thơ xuất thần nhờ cái chung và cái riêng biết nương tựa vào nhau cùng phát sáng. Bởi vậy, hãy xem câu thơ “ em rất thực nắng thì mờ ảo/ Xin đừng lầm em với cố đô” như là một cách nói. Đúng ra “ em” cũng chỉ là một hoài niệm (Mặt trời vàng và mắt em nâu), mặc dù vẫn “ còn vương tơ lòng”, chưa hết những xốn xang buổi đầu:

            Áo trắng hỡi thuở tìm em không thấy
            Nắng minh mang mấy nhịp Tràng Tiền

Nhiều người khen từ “ minh mang” rất gợi mà cũng rất hợp. “ Minh” là sáng, “ mang” là rộng, dài. Nếu tinh còn nghe thấy cả sự âm vang nữa! Phải là cầu sắt như Tràng Tiền giữa sông Hương êm ả vào giữa một ngày nắng đẹp mới có sự âm vang này. Nhưng dường như đó là sự âm vang trong tâm tưởng, từ xa xăm vọng lại...

Trong bài thơ hầu như có tất cả những gì được xem là đặc trưng của Cố đô: lăng tẩm, đền đài, sông Hương, cầu Tràng Tiền... Nhưng mọi hình ảnh chừng như là cái cớ để cái tôi trữ tình bộc bạch một mối tình đẹp đã đi qua, vĩnh viễn đi qua dẫu còn nuối tiếc mà không có cách nào trở lại nguyên vẹn như xưa. Tôi nghĩ hãy từ ý tưởng chung ấy mà hiểu bài thơ. Bản đầu in:

            Bởi vì em dắt anh lên những ngôi đền cổ
            Nên chén ngọc giờ chìm dưới đáy sông sâu.

Có thể từ “ nên” cần được lược bỏ như ở bản sau, nhưng nó giúp ta sáng tỏ được cái tinh thần hoài cổ thấm nhuần trong cả bài thơ đến từng chi tiết. Vậy chẳng có gì là khó hiểu nếu tác giả hạ bút viết:

            Tạm biệt Huế với em là vĩnh biệt

Ở đây, “ vĩnh biệt” là vĩnh biệt một mối tình đẹp thời hoa niên. Nếu sửa thành “ với em là tiễn biệt” như bản sau thì chỉ được cái nhịp mà không được cái nghĩa. Từ đó, chúng ta cũng có điều kiện lý giải những câu tưởng là bi lụy là vô vọng như: “ Để ngàn lần anh nhớ hư vô”, và “ Một đời anh đi mãi chẳng về đâu”... Một người làm thơ có nghề và có tâm như Thu Bồn chắc không thể lơi lỏng khi dụng bút.

Xem xét dị bản một bài thơ hay đầy tâm huyết của Thu Bồn về Huế hóa ra rất bổ ích cho tôi trong việc tìm hiểu thơ cũng như cách làm thơ. Xin được chia sẻ cùng các bạn.

Đà Lạt, 12-98
P.Q.T
(129/11-1999)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ THÍ

    Trong một bài trả lời phỏng vấn, Đặng Tiến cho biết: “Tôi sinh 1940 tại xã Hòa Tiến, thành phố Đà Nẵng. Năm 1960, vào Sài Gòn học Đại học Văn Khoa, 1963 ra trường, đi dạy tại trường cấp 3 A.Yersin. Từ 1968, tôi về Pháp, học thêm ở Đại học Paris và bắt đầu công việc dạy Pháp văn cho một trường cấp 3 ở Orléans (cách Paris 100km). Cùng với Giáo sư Tạ Trọng Hiệp, tôi lập ra Ban Việt học tại ĐH Paris 7, giảng dạy ở đây từ 1969 - 2005”.

  • LẠI NGUYÊN ÂN

    Bạn đọc ngày nay đều biết bài thơ Huế tháng Tám nổi tiếng của nhà thơ Tố Hữu, bài thơ được in trong tập Từ ấy và cho đến nay đã có mặt ở hầu hết các tuyển tập thơ Tố Hữu, đã đi vào sách giáo khoa của nhà trường phổ thông.

  • NGÔ THẢO
    (Từ kỷ niệm của một nhà văn)

    Trong đời mỗi người, thường vẫn có một nhà văn, mà ta thường tìm tới đọc lại vào những lúc cuộc sống chung hoặc riêng gặp những chuyện cần suy nghĩ.
     

  • PHẠM PHÚ PHONG

    Mỗi tác phẩm đều là một sự thể nghiệm của nhà văn. Tất cả những tư tưởng, tình cảm và con người đều in dấu vào trang sách, hắt sáng lên những trang đời mới mẻ.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG

  • MAI VĂN HOAN

    Tháng 6 năm 1995, khi gửi tập “Thơ Phùng Quán” vào Huế tặng nữ nhà văn Hà Khánh Linh, chị Bội Trâm - vợ nhà thơ Phùng Quán, ghi: “Thân tặng Hà Khánh Linh, người đã một thời khơi nguồn cảm hứng cho anh Quán làm thơ”.

  • Trong khi một số người viết mới xuất hiện hoặc không thuộc dòng “chủ lưu” cần được có những diễn đàn để có thể công bố tác phẩm, đối thoại, trao đổi một cách bình đẳng những vấn đề trực diện về nội dung và sáng tạo, thì điều này gần như là chuyện quá xa vời. Những gì được phổ cập trên mặt báo, sách xuất bản hiện thời quá thiếu tinh thần cống hiến, thiếu những tìm tòi nghiêm túc về nghề nghiệp và tri thức.

  • TRƯƠNG THỊ CÚC - NGUYỄN XUÂN HOA Năm 1885 được đánh dấu bằng một sự kiện lịch sử quan trọng: đêm mồng 4, rạng ngày mồng 5-7-1885 Tôn Thất Thuyết và nhóm chủ chiến trong triều đình nhà Nguyễn đã tiến công vào sào huyệt của thực dân Pháp tại kinh thành Huế, dẫn đến sự bùng nổ của phong trào Cần Vương, một giai đoạn quan trọng trong lịch sử chống thực dân Pháp.

  • TRẦN THỊ NGỌC LAN Nhà xuất bản Văn học(Đọc tập truyện ngắn Chưa đủ để gọi là khoảnh khắc của Lê Minh Phong - NXB Văn học, 12 - 2011)

  • LGT: Lần đầu tiên khi tiếp cận với thể thơ Hài cú (Haiku) của Nhật Bản, R. M. Rilke (1875 - 1926) đã lập tức bị lôi cuốn vì vẻ đẹp dung dị và thuần khiết của thể thơ nhỏ bé, ngắn ngủi, ít lời nhất trên trường văn chương quốc tế.

  • BÙI VĂN KHA (Đọc Máy bay đang bay và những bài thơ khác - Thơ Nguyễn Hoa - Nxb Hội Nhà văn, 2011)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc Rễ bèo chân sóng, hồi ký của Vũ Bão, Nxb Hà Nội, 2011)

  • Nhân 100 năm ngày sinh nhà văn Thanh Tịnh (12/12/1911-2011) và 70 năm ra đời “tôi đi học”

  • TÔN THẤT BÌNH "Biến động" là tập đầu trong bốn tập kể lại "một giai đoạn đấu tranh của nhân dân ta trước biến động của lịch sử khi giặc Pháp sang xâm lược nước ta, khi vua quan nhà Nguyễn đầu hàng giặc Pháp, chăm lo cuộc sống riêng mình" (Lời Nhà xuất bản. tr.5).

  • BỬU NAM Tên nhà thơ không còn xa lạ gì với bạn đọc Sông Hương. Có thể nói hình như Tạp chí Sông Hương là mảnh đất thích hợp gieo trồng những tìm tòi nghệ thuật mới của anh.

  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT Trong Lời giới thiệu tác phẩm mới xuất bản của Phan Trung Thành, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận xét rằng, tác giả của Ăn xà bông(*) đã rẽ ra được một lối đi cho riêng mình như kết quả của nỗ lực lao động nghệ thuật.

  • PHAN HỒNG MINH «Long thành cầm giả ca» là bài thơ mở đầu phần «Bắc hành tạp lục» trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1). Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời «dâu bể» của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.

  • THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)

  • KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.

  • LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.