Đêm bơ vơ

14:33 21/12/2009
KIỀU VƯỢNGĐêm giữa thu. Hà Nội se lạnh. Sao chới với nhưng mây vẫn vũ làm nền trời như khô khốc, nhạt nhòa. Một hồi còi tàu rú dài như thả thêm vào đêm luồng khí lạnh. Quang nhìn đồng hồ sân ga dã quá mười hai giờ khuya.

Minh họa: Phan Thanh Bình

Cả ngày nay, Quang phải làm một việc hệ trọng của đời người. Nói đúng hơn. Quang phải đóng một vai quan trọng trong lễ cưới của Nhạn, em gái mình. Nhạn tốt nghiệp đại học chưa được bao lâu thì kết hôn với một giáo sư trẻ, thầy dạy của cô. Chú em rể lại là con trai độc nhất của một vị Thứ trưởng có thừa quyền lực. Bởi thế, Nhạn được nhận công tác ở một trường phổ thông trung học giữa thành phố trước ngày cưới. Nhưng tất cả chuyện đó đối với Quang chỉ là vặt vãnh. Cái lớn nhất là anh đã mãn nguyện. Quang chỉ có một ước muốn mong sao cho đứa em gái duy nhất của mình được hạnh phúc. Tổ tiên, phúc đức thế nào mà dòng họ nghèo hèn nhà anh lại sinh ra một cô Nhạn xinh tươi, thông minh và nết na đến thế. Quang chỉ phân vân một điều là em gái mình sống quá vô tư. Vô tư nhiều lúc tới mức vô tâm.

Đối với Nhạn, cuộc đời này bất cứ cái gì cũng trong suốt, đẹp rực rỡ. Cái gì cũng đáng yêu và đáng say. Quang chỉ có một mong muốn là em gái mình được hạnh phúc và hôm nay đã đến.

Nhưng chính đêm nay, khi đứa em gái duy nhất của anh đang chứa chan hạnh phúc trong một biệt thự sang trọng thì cũng chính là đêm Quang thấy mình bơ vơ nhất trong suốt hai mươi bảy năm anh có mặt ở thế gian trần tục.

Chuyến tàu Thống Nhất rời ga Hà Nội vào lúc một giờ khuya. Hà Nội đang vùn vụt, loang loáng, vội vàng lùi lại phía sau. Quang cảm thấy tàu chạy quá chậm. Anh muốn nhảy khỏi đoàn tàu nặng nề để nhằm hướng Nam chạy thật nhanh bằng đôi chân của mình. Anh muốn lẩn trốn thật nhanh khỏi cái thành phố hào hoa, giàu sang và ồn ã này. Anh thề với lòng mình đây sẽ là đêm cuối cùng với Hà Nội. Anh đã thề thì anh sẽ giữ lời thề ấy.

Trong đầu óc u nặng của Quang chỉ còn chơi vơi bóng hình làng biển, nơi mẹ đẻ ra anh. Làng anh mang dáng một con thuyền nhỏ bị cạn lại vừa giống một chiếc lá bàng khô rộp trên bãi cát. Đêm nay, nơi ấy Quang chỉ còn một người thân duy nhất đó là người cha tội nghiệp. Người cha mà số phận luôn đun đẩy, quăng quật không một phút bình yên. Cha Quang tên là Cát nhưng ông phải mang thêm cái từ đệm là Đao. Cả làng cả xứ biển này nói đến Cát Đao thì ai cũng biết. Ông sống sờ sờ nhưng lại cứ như một huyền thoại cổ xưa. Nhiều kẻ vô công rồi nghề còn đem chuyện ông để thêm pha, bịa đặt đủ thứ hài hước làm vui.

Quả thật Cát Đao có một cuộc đời chìm nổi, cam go tới mức vừa huyền thoại lại vừa lạ lùng. Sắp vào tuổi sáu mươi nhưng cứ mỗi chiều tà, khi mặt trời chìm dần sau rặng tre làng mà ngày ấy vẫn chưa gặp tai họa nào ập đến thì ông biết mình chưa thể ăn ngon ngủ yên.

Còn đêm nay, trên con tàu già nua mệt nhọc lắc lư, Quang hình dung cha mình đang hết vào lại ra đường nhìn về phía chân trời phía Bắc. Người cha tội nghiệp của anh làm sao ngủ được trong căn lều cổng chợ đêm nay. Ông như thân gà trống nuôi con đằng đẵng suốt hơn hai chục năm trời chỉ mong có hôm nay. Ông còn mong gì hơn kia chứ. Ông đang đinh ninh hai đứa con đã trưởng thành, đàng hoàng, bề thế nhất làng nhất xã. Con Nhạn thì đành một nhẽ. Đàn bà tốt nghiệp đại học vừa ra trường đã có công ăn việc làm, chồng con đàng hoàng thế là ông mừng. Niềm hy vọng lớn nhất của ông là thằng Quang. Ông tin tuyệt đối con trai mình đã tốt nghiệp đại học bách khoa ra trường gần một năm nay, là kỹ sư gì đó ở một Công ty giàu có nhất tỉnh. Ông tin và ông mãn nguyện lắm, thật bõ công lăn lóc, tần tảo nuôi con. Chính từ lòng tin ấy mà hơn ba năm nay ông sống lặng lẽ, vui vẻ với cái nghề chẻ nan tre, đan rổ bán cho dân làng buôn cá từ biển lên chợ huyện. Căn nhà cũ cha mẹ để lại ở giữa làng ông bán lâu rồi. Hơn mười năm trước ông đã dựng cái lều bằng tranh tre ngay trước cổng chợ Đón. Bây giờ ông tin không lâu nữa thằng kỹ sư Quang nhà ông sẽ có biệt thự giữa thành phố, có vợ đẹp con khôn và sẽ đón ông lên. Ý nghĩ tốt đẹp ấy nâng vực ông sống thanh thản, tử tế và tốt bụng với tất cả mọi người.

Vợ Cát Đao tên là Đài. Thời xuân sắc, cô gái Đài đẹp nhất vùng mà bất cứ chàng trai nào trông thấy đều phải cắn răng thật chặt để nuốt khan nước miếng. Nhà Cát Đao và nhà cô Đài cách nhau một bờ dậu bằng mây do bố Đài trồng. Cây mây trồng ở đất cát vùng biển, có hơi nước mặn đẻ lan nhanh quá thể. Cứ sáng một ngày, hàng mây lại mọc thêm vô vàn đọt trắng. Rồi một lần bố Cát Đao đào một cái hào thật sâu dọc bờ mây bên mảnh vườn chó ỉa nhà mình cho mây khỏi đẻ lấn sang. Vài ngày sau, một trận mưa rào, đất cát lở làm hàng mây đổ sụp. Một trận ẩu đả xảy ra giữa hai nhà, tiếp đó là một trận đánh nhau sứt đầu mẻ trán, mối hận thù sinh ra từ đó. Hai nhà cách nhau một bờ mây nhưng hàng chục năm trời không nhìn mặt nhau. Bố mẹ đã thù nhau thì con cái cũng theo. Cô Đài và chàng Cát bằng tuổi. Cát học dở dang bỏ theo cha làm nghề chài lưới kiếm sống ngoài biển. Cát có một biệt tài là bơi lội như con rái cá.

Năm mười bốn tuổi, một trận giông tố đột ngột giữa biển. Dân làng chết gần trăm mạng, trong đó có người cha thân yêu của Cát. Cát Đao phải bơi bộ suốt hai ngày hai đêm ròng trên biển. Lần ấy Cát nhai gần hết chiếc quần lót vải nhuộm nâu của mình để quai hàm khỏi cứng lại mong giữ được sức mà bơi. Lần ấy, Cát được tàu hải quân cứu sống.

Đầu năm 1966, giặc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc dữ dội. Trai gái làng ông tranh nhau đi thanh niên cảm tử ở đoàn vận tải thuyền nan chống Mỹ để chèo thuyền chở đạn và gạo vào chiến trường Nam khu bốn. Cát Đao và Đài có mặt trong đoàn quân ấy. Đại đội của họ có một trăm chiếc thuyền nan và hơn hai trăm con người mà chưa mấy ai qua tuổi hai mươi. Chiến tranh. Thuyền và người cứ hao mòn dần. Không ngày nào họ không phải đào hố huyệt dọc hai triền sông để chôn cất đồng đội rồi lại vội vàng ra đi. Bom đạn mù mịt. Thỉnh thoảng họ lại phải dừng thuyền vớt xác đồng đội vô danh vừa trôi nổi trương lên từ dòng sông ấy. Sống chết là thế, đau thương là thế nhưng Cát và Đài cùng ngõ làng vẫn không chào hỏi nhau suốt hai năm trời đằng đẵng.

Đến một chiều đông, đó là chiều ngày 20 tháng một ta năm 1968. Cô Hậu đi cùng thuyền với Đài bị thương phải nằm lại một hiệu ảnh bên đường. Mình Đài chèo một thuyền ba tấn gạo vượt kênh Son ra cửa Lạch Cờn Nghệ An. Đài phát hiện thuyền mình bị mảnh bom găm thủng nan nứa. Nước rò vào rất nhanh. Đài gác mái chèo nhảy xuống lòng khoang, dùng khăn mặt nút lỗ thủng rồi vội vàng tát nước. Mải tát nước, chiếc thuyền của cô bị gió đẩy ra sát cửa biển Lạch Cờn. Hoảng hốt, Đài cầm sào chống nhưng nước sâu quá, cô cạy bát mái chèo nhưng không thấm vào đâu với sức nước ròng và gió lớn. Đài nhận ra, gió Tây Nam quá mạnh. Chỉ chốc lát thôi cả cô và con thuyền nhỏ sẽ làm mồi cho cá dưới đại dương. Đài gắng hết sức nhưng càng gắng thuyền càng dạt ra biển rất nhanh. Giữa lúc vô cùng tuyệt vọng, Đài nghe tiếng người hét lẫn trong tiếng gió rít:

- Ghìm thật chắc chèo. Không được buông lái...

Bơi theo cứu thuyền lại chính là Cát người hàng xóm hận thù của cô. Không biết trời đất run rủi thế nào, Cát phát hiện có một chiếc thuyền đang gặp nạn. Cát hét người bạn cùng đi:

- Có thuyền bị nạn dạt ra biển, mày cố chèo nhanh đuổi đoàn vào tuyến để khỏi mắc cạn. Tao phải ra cứu...

Chỉ nói vậy, Cát nhảy xuống dòng nước lạnh bơi cứu thuyền trong gió rét cuồng loạn.


Đài nhận ra có người cứu mình. Cô vứt sợi dây dừa buộc sẵn một đầu vào cọc chèo xuống sau thuyền. Cát túm dây vừa bơi vừa kéo lê chiếc thuyền vào cửa lạch. Mãi khi Đài nhận ra người cứu mình chính là Cát thì cô mới òa khóc. Cô khóc như chưa bao giờ được khóc nhưng Cát không nghe vì sóng to gió lớn và Cát đang dồn hết phần sức lực còn lại để kéo thuyền. Kéo được thuyền vào được đầu kênh Cát Vàng thì họ gặp nước ròng rất nhanh, mặt sông bỗng dưng cạn rặc. Trời tối mịt tối mù. Đài kéo tay Cát khỏi mặt sông bùn loãng lên thuyền. Toàn thân Cát giá cóng. Đài lấy chiếc buồm nâu lau người cho Cát. Đài chui vào khoang lật các bì gạo ra hai bên thành một cái rãnh sâu giống hệt như một hố huyệt của chiếc quan tài. Đài lôi Cát dúi vào quan tài ấy cũng chỉ mong hơi nóng của gạo phả ra làm Cát khỏi chết cóng. Đài đắp chiếc chăn chiên, phủ cả chiếc buồm nâu lên người Cát xong, cô chui ra ngồi ở sạp luồng khoang lái. Biển và trời đen đặc chùng chiềng, sóng trắng lân tinh. Gió rít lên từng cơn như cố xô đẩy những hàng sú vẹt ngàn đời ngẩn ngơ chịu rét. Gió đạp vào vách núi ven sông bật lên những tiếng hú dài rùng rợn. Tiếng chim quái ác trong hang núi khắc khoải thả xuống hai tiếng “ cho chừa- cho chừa...”. Bỗng Đài nhận ra một đốm lử lập lòe trên hông núi Quỳnh Lập. Đài hiểu đó là nơi sơ tán những người bị bệnh phong hủi của bệnh viện.

Trời càng về khuya càng giá cóng. Sương như có thể bốc được trên tay. Cô đưa tay vuốt tóc mà ngỡ đang chạm vào mặt chảo mỡ đặc. Lại một tiếng chim “ cho chừa”. Lại một tiếng gió hú từ vách đá. Biển và trời thành một khối đặc. Rét cóng và sợ hãi. Đài chui vào khoang chất gạo ngồi cạnh Cát. Cát tỉnh dậy từ lâu và hiểu hết nên nhỏ nhẹ:

- Đài nằm xuống cho đỡ cóng. Đói rét, khổ ải, sống chết tính từng giây chẳng lẽ còn hận thù nhau mãi...

Đài òa khóc. Cô nấc lên nghe giống tiếng nấc của gió gào. Cô cảm thấy lồng ngực mình sắp vỡ tung ra. Nước mắt cô nóng hổi trên mặt chàng trai Cát. Họ úp mặt vào nhau. Họ quấn chắc vào nhau như để đỡ rét. Họ kệ cho con thuyền mắc cạn cứ run lên bần bật và hình như đang lún dần xuống mặt sông lênh loáng bùn loãng. Đó là đêm đầu tiên, lần đầu tiên hai con người biết mùi thơm của da thịt con người. Đó cũng là lần đầu tiên hai thể xác, hai linh hồn được hòa quyện nhau và họ nhận ra sự mới lạ sung sướng của kiếp làm người.

Đoàn thuyền của họ vẫn nặng hàng vượt sông Lam, vào sông La, lên tận sông Ngàn Sâu, Ngàn Phố, Ngàn Trớc. Ngược gió và nước. Chiến tranh khốc liệt hơn lên. Họ lại vượt hàng trăm hải lý từ cửa biển Lạch Hội Nghệ An vào Đồng Hới, vào sông Nhật Lệ Quảng Bình. Thuyền họ lại ngược sông Kiến Giang lên tận vùng Thác Tre, Xuân Bồ trao hàng sang những chiếc xe thồ chở tiếp vào đường mòn Hồ Chí Minh. Bao cay cực, chia ly họ quên hết. Họ chỉ nhớ có chiến tranh và kỷ niệm. Kỷ niệm hình như nhiều hơn số bom đạn kẻ thù dội xuống mà họ từng hứng chịu trên đường xa sông vắng.

Rồi chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ kết thúc. Chàng trai Cát và cô gái Đài lại trở về cái làng biển mang dáng một con thuyền mắc cạn mà họ từng gặp. Làng biển của họ cũng xơ xác vì bom đạn. Bờ mây ngăn cách hai nhà cũng bị bom Mỹ cày tan tác. Họ cưới nhau ngày 16- 10- 1972. Đám cưới Cát và Đài chỉ có nhiều trầu cau và vô vàn những cái ống điếu thuốc lào. Quà mừng cưới là những mủng gạo tẻ, những rá gạo nếp. Nhiều ông già xách từng xâu cá quần dài vắt vai từ ngoài biển về qua sân nhà Cát vứt vào mừng đám cưới. Nhiều bà già mắt nhá nhem lần trong cạp váy nâu lấy ra mấy đồng bạc vo tròn như cái chỏm cau. Rồi họ sinh con trai đầu đặt tên là Quang. Quang được mười ba tháng tuổi thì họ lại sinh tiếp cô gái Nhạn xinh tươi để đêm nay đang tràn trề hạnh phúc với thầy giáo trẻ ở thủ đô.

Năm Nhạn lên bốn, một thảm họa ập đến gia đình họ. Đó là một trưa hè nắng quái. Đài nhốt hai đứa con nhỏ đi mua cá ngoài biển về chợ Đón bán. Về đến cổng chợ Đài bị cảm gục xuống khi đòn gánh còn đè trên lưng. Dân làng vội đưa đến trạm xá nhưng không thể nào cứu sống được.

Hai ngày sau, Cát từ ngoài khơi trở về nhận tin vợ chết. Cát ôm hai đứa con chạy ra mộ Đài úp mặt lên đống cát giữa đồng. Những ngày sau Cát khắc tên vợ vào cái bai chèo dựng cạnh bàn thờ và thề:

- Cả đời tôi chỉ có mình Đài. Tôi thề sẽ nuôi con một mình cho chúng nên người...

Cát bỏ nghề biển để chạy chợ nuôi con. Ông lam lũ và cam phận. Trời xa lắm và đất thì lỳ lợm lắm.

Năm Quang mười sáu tuổi ông Cát bán ngôi nhà giữa làng lấy tiền nuôi con ăn học. Ông ra dựng một cái lều ngay giữa cổng chợ Đón, giữa nơi vợ ông quỵ xuống vì cảm nắng. Ông mở quán tiết canh lòng lợn. Mấy năm đầu làm ăn khấm khá, khách dồn hết cả về quán của ông. Dân chài lưới ngoài khơi vào đến đất liền thế nào cũng rủ nhau vào quán ông Cát. Có tiền thì trả. Chưa có tiền thì chịu. Lâu nữa thì xách cá về đổi trừ nợ. Phàm ở đời khi đói khổ thì họ khinh. Lúc kiếm được miếng ăn họ lại dèm pha ghen ghét. Rồi công an, thuế vụ trong xã đến hạch họe, ăn không chịu trả tiền. Nhiều hôm ăn không trả lại còn hạch sách nữa. Đến một chiều như không còn chịu đựng nổi, ông Cát đòi tiền ra mặt cánh thuế vụ. Họ dọa sẽ đưa người về bắt ông. Điên tiết vì quá chén ông rút con dao bầu chọc tiết lợn để sẵn lùa mấy chàng thuế vụ chạy tán loạn. Ông công khai tuyên bố giữa chợ:

- Vợ chồng tao đi chèo thuyền chở gạo đánh Mỹ, thừa sống thiếu chết trở về. Nay vợ chết, con dại mở cái quán kiếm ăn. Đứa nào lớ xớ định quy t tao chém. Tao chém hết rồi mới chém tao sau.

Cái tên đệm Cát Đao có từ hôm đó (ở vùng biển con dao thì gọi là đao mà). Cũng từ đó cánh thuế má phải lờ dần và ông giữ lời thề bên bàn thờ vợ sống một mình thật để nuôi con. Năm Quang và Nhạn lên cấp hai thì đều học giỏi nhất vùng. Năm nào cũng được đi thi học sinh giỏi ở huyện, ở tỉnh. Hết lớp mười hai Quang đạt giải nhì quốc gia về môn toán, được vào thẳng đại học bách khoa. Quang học hết năm thứ nhất thì Nhạn cũng đoạt giải ba môn văn trong kỳ thi tuyển quốc gia và vào thẳng đại học sư phạm 1 Hà Nội. Ông Cát trần lưng xoay sở ở quán tiết canh lòng lợn để nuôi hai đứa con ăn học giữa thủ đô. Nhờ trời quán ông ngày một khấm khá. Không chỉ đủ nuôi con mà có của ăn của để. Đang lúc ăn nên làm ra thì một trận ốm ập đến quật ngã Cát Đao. Ông sốt liên miên và ho khắc khoải, cầm canh hàng tháng vì bệnh cảm hàn. Những kẻ lâu nay cùng bán hàng ganh ghét Cát Đao đông khách liền tung tin ông bị ho lao. Họ lại còn bảo lao hang lao hốc gì đó tận trong gan trong phổi. Những người từng ăn tiết canh lòng lợn ở quán Cát Đao đều lo sợ mình bị lây bệnh. Vùng nhà quê nghe đến bệnh ho lao thì sợ lắm.

Trận ốm cảm hàn qua đi Cát Đao mở lại quán tiết canh lòng lợn nhưng hai tháng ròng, không một ai lai vãng đến. Nhiều người trước đây rất thân thiết nay cũng lảng tránh.

Một chiều, buồn và chán. Cát Đao ngồi uống rượu một mình. Ông bê cả cái bình rượu bằng sành lên uống ừng ực. Cát Đao càng uống càng thấy rượu nhạt thếch. Hình như rượu ông uống không chảy vào họng mà cứ trào ngược lên thành hai dòng nước mắt chảy tong tong xuống cái vỏ hũ sành. Ông uống, ông tuyệt vọng. Lấy gì nuôi hai đứa con ăn học đây. Ông đã thề và ông phải giữ trọn lời thề trước hương hồn người vợ. Trong lúc quá say và tuyệt vọng, Cát Đao lia chai xăng đầy lên mái tranh và châm lửa đốt quán. Cái quán ở cổng chợ bốc cháy, bà con xúm đến dập lửa nhưng không kịp. Người quanh chợ, người trong làng thấy rõ giữa lúc lửa than còn đỏ rực Cát Đao vẫn quỳ bên đống tro than để xin hương hồn vợ tha thứ. Dân làng còn thấy Cát Đao bò vào bê bát hương thờ vợ ra ngoài rồi gục đầu xuống đôi vai không ngớt rung lên.

Ngay sáng hôm sau, dân trong làng người vác cho cây tre, kẻ đội mấy bó tranh, người cầm nắm lạt đến dựng lại quán cho Cát Đao. Cái quán mới lại đẹp hơn, sang hơn và Cát Đao cũng ân hận hơn vì hành động vô thức của mình. Cát Đao thấy con người tốt quá, thương yêu nhau quá. Người nhà quê, có ganh ghét nhau nhưng khi hoạn nạn họ xúm ngay lại để giúp nhau. Họ không như cánh dở nhà quê dở thị thành, cứ ganh ghét nhau là viết đơn nặc danh, đặt đủ điều xấu xa bêu riếu lẫn nhau cho hả giận.

Cũng từ đó Cát Đao thay đổi hẳn tính nết. Ông thấy cả cái làng này ai cũng đáng quý đáng yêu. Hàng tháng ròng không ai thấy Cát Đao cười. Ông đi mua tre về chẻ nan đan rổ, nức bằng những sợi mây bán cho dân buôn cá từ biển lên chợ huyện.

Hai tháng liền, không thấy bố gửi tiền, linh tính như mách Quang có gì không ổn ở nhà. Anh nhảy tàu về và hiểu hết mọi sự. Hai cha con ôm nhau khóc. Quang hứa sẽ vừa học vừa làm thêm nuôi em để đỡ dần cho bố.

Đoàn tàu phanh kít lại, Quang đập đầu vào thành ghế phía trước và anh như sực tỉnh. Đây mới là ga Phủ Lý. Cảnh nhộn nhịp lên xuống. Tiếng người ngái ngủ rao bán hàng đêm không làm Quang chú ý. Con tàu lại tiếp tục nghiền bánh sắt xuống đường ray. Quang lại cảm thấy mình bơ vơ nhất trần gian. Chắc đêm nay bố không ngủ được. Bố đang nóng lòng chờ mình về kể lại đám cưới của em. Anh nghĩ đến những năm tháng bươn chải giữa thủ đô. Từ ngày bố gặp tai họa một mình anh vừa học vừa làm thuê ở một quán ăn lớn để có tiền nuôi em. Anh chỉ xin chủ quán là không bao giờ xuất hiện nơi khách đang ăn. Anh cấm em gái không được đến ký túc xá của trường Bách khoa. Anh xin bạn bè cùng phòng không hở tin anh đang làm thuê lấy tiền ăn học và nuôi em. Kỳ nghỉ hè tiếp anh nhờ bạn bè xin việc cho Nhạn làm gia sư cốt để Nhạn khỏi biết tin nhà. Nhạn thì vô tâm lắm. Cứ ngày mùng mười hàng tháng anh trai đem tiền đến cho mình là vui. Mỗi lần gặp em gái, Quang không hề lộ một thoáng phân vân. Anh tỏ ra vui vẻ hào phóng mỗi lần gặp Nhạn và bạn bè của nó.

Nhưng sự đời cái gì cũng có giới hạn. Vừa học vừa làm thuê giữa đất khách quê người thì nuôi thân đã khó huống hồ gì nuôi em. Nhiều hôm Quang phải nhổ lông, làm lòng hơn sáu chục con gà vịt ngan ngỗng cho tới thấu sáng. Tiền kiếm mỗi ngày một khó nên vào năm học thứ ba được tròn một tháng thì anh bỏ học để đi làm nuôi Nhạn. Khóa bách khoa vừa mãn, Quang vẫn bình yên vì Nhạn và bố không biết tin mình bỏ học. Quang đến ký túc xá trường Sư phạm bảo Nhạn:

- Anh nhờ được người xin việc ở một Công ty điện tử lớn nhất tỉnh rồi. Ngày mai anh về, sẽ gửi tiền đều hàng tháng cho em. Em cố học giỏi năm cuối cùng để dễ xin việc...

Quang xa Hà Nội gần một năm rồi nhưng có nghề ngỗng gì đâu. Thân cô thế cô, lại không một đồng tiền dính túi thì xin việc sao nổi ở thời buổi này. Học hành dở dang. Trở về quê thì có khác gì cầm que sắt chọc vào tim bố. Anh dồn góp mua một cái xe Phượng Hoàng cũ và một đôi quang gánh. Cơ quan và nơi công tác của anh gần một năm nay là cái hè quá rộng của Bưu điện tỉnh. Anh lẫn trong cái chợ người vô tận. Ai thuê việc gì dù đắt rẻ cũng làm đến nơi đến chốn. Quang không bon chen, không to tiếng. Anh kết thân với cánh ba gác xích lô và cả những anh chàng xe ôm ngổ ngáo. Anh có một kỷ luật nghiêm ngặt là tối thứ bảy nào cũng đạp xe về quê với bố. Tuần thì mua gói bột ngọt, tuần sau lại mua cái chậu thau bằng nhựa. Cát Đao tin con trai tuyệt đối. Những tối bên bố Quang thường vẽ ra bao tương lai tươi sáng. Bố Quang vui và càng sống tốt với mọi người. Ông bắt đầu tin vào số phận. Bõ công ông nuôi con một mình hơn hai chục năm trời. Con trai ông nay là kỹ sư, lại là kỹ sư điện tử nữa. Con gái ông là cô giáo. Ông im lặng chờ ngày mình sung sướng, mở mày mở mặt với dân làng.

Chuyến tàu lại gồng lên như lôi Quang về với thực tại. Sáng nay anh sẽ về kể với bố đám cưới sang trọng của em gái mình. Và ngày kia anh lại lẩn vào cái chợ người lam lũ. Lại chuyện trò với cánh ba gác xe ôm. Lại gặp những ông chủ tốt bụng, ngoài tiền công còn cho anh cả một bữa ăn trưa. Rồi tối tối, sau mấy bát cơm bình dân chắc bụng anh lại về với cái hè quá rộng ở cửa Bưu điện tỉnh. Rồi sáng hôm sau, trong lúc nhao nhao chờ việc anh lại gặp những ông bụng phệ bước ra từ những chiếc ô tô sang trọng vào nhận những khoản tiền quá lớn của con cháu từ nước ngoài gửi về. Anh nhớ cả những bà chạy tao tác vào điện khẩn cho con là bố say rượu vừa bị tai nạn giao thông. Anh nhớ cả câu chuyện mấy cô quét rác đêm khuya trên đại lộ khoe với nhau rằng:

- Chồng tao khác chồng mày. Chồng tao không nghiện chè nghiện rượu, chỉ thỉnh thoảng nghiện đánh phỏm thôi.

Anh ước gì mình là nhà văn để viết một thiên phóng sự mang tên “ Chuyện ở sân Bưu điện tỉnh”.

Một luồng gió lạnh thổi qua cửa sổ làm Quang bàng hoàng, anh lẩm nhẩm:... Sao lại có một đêm bơ vơ đến thế này. Bỏ học đi làm thuê nuôi em, nay em đã đi lấy chồng. Bố thì đang tin con trai mình thành đạt. Ngày mai nên về đâu. Trái đất đêm nay có ai bơ vơ như mình không.

Chỉ có tiếng gió rít qua cửa sổ và tiếng bánh sắt con tàu nghiến kèn kẹt xuống đường ray.

Đúng tám ngày sau cái đêm dự đám cưới em gái trở về Quang đã gặp một biến cố.

Sáng hôm ấy trời tháng Tám nhưng nắng hanh. Một ông giáo già nghỉ hưu ở sát hồ ga chuyên làm cây cảnh đã gặp Quang. Ông thuê Quang cứ lặn xuống hồ vục một thúng bùn đội lên đổ vào vườn thì ông trả ba trăm đồng bạc. Tính Quang thì ai thuê mình dù đắt rẻ khó khăn cũng làm đến nơi đến chốn. Ông còn bảo Quang:

- Cháu biết không, cái loại bùn hoa dưới hồ ga lâu năm, cứ phơi khô đập nhỏ bón cây cảnh thì không có một loại phân vi sinh nào bằng.

Buổi sáng ấy Quang đã lặn hụp bốc từ lòng hồ lên được tám mươi thúng bùn thì trời đã quá trưa. Có điều hồ ga là nơi phân rác cả thành phố dồn lại lâu năm. Cỏ lia thia và rong rêu phủ kín. Cái cỏ lia thia quái dị đã cứa vào da thịt Quang hàng trăm vết xước. Từ những cái vết rỉ máu ấy gặp nước tù đọng lâu ngày làm da thịt anh ngứa ngáy và sưng tấy lên. Quang tắm xong, anh thấy toàn thân như bị ai xát ớt và muối, nóng đến khủng khiếp. Anh nhận hai mươi bốn ngàn đồng nhưng không có tiền lẻ, ông chủ đã đưa năm tờ bạc năm ngàn mà không đòi lại chỗ tiền thừa. Đó là sáng đầu tiên sau gần một năm làm thuê Quang kiếm được nhiều tiền nhất. Hai mươi lăm ngàn chỉ trong một buổi sáng.

Quang vào quán, ăn một tô cơm kèm theo cá mặn và uống hai cốc rượu đầy rồi đạp xe về sân Bưu điện tỉnh. Anh gối đầu lên chiếc đòn gánh để ngủ như thường lệ, khi nào khách gọi thì dậy đi làm. Tự nhiên anh thấy toàn thân nóng rực như lên cơn sốt. Đúng là sốt thật. Váng vất, co giật, đau đớn rồi lại lịm đi, trong mơ màng Quang thấy bố cười nhìn anh đầy mãn nguyện. Thấy cả em gái đang khoác tay người chồng mới cưới đi thập thững trong công viên sang trọng. Và cuối cùng anh đã mơ gặp được mẹ Đài. Mẹ Đài như trẻ ra, mặc một bộ quần áo đen, trùm khăn đen như để giấu đôi mắt u buồn. Mẹ Đài khẽ lắc đầu rồi nhìn anh chằm chằm và đưa tay vuốt mắt anh đến ba bốn lượt. Quang muốn cố quằn quại nâng đôi tay thật cao để bám được vào cổ mẹ như xa xưa nhưng không được.

Ngay chiều hôm ấy, các nhân viên Bưu điện tỉnh và cả cái chợ người nhao nhác, ồn ã vì xác chết đột ngột của một kẻ làm thuê.

Trên mộ anh, tấm bia bằng đá hoa cương em gái anh khắc dòng chữ: Chỉ có tình ruột thịt mới có sự hy sinh thầm lặng đến vậy, ơi anh Quang!

Đầu Xuân 1999
K.V
(123/05-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.