Tóm lược bài nói chuyện trao đổi một số vấn đề về tình hình văn học Xô viết những năm 80, đặc biệt là sau Đại hội 27 của GSTS V. Xmirnốp trong chuyến thăm Huế với Chi hội Nhà văn Bình Trị Thiên của đoàn cán bộ Học viện văn học Gorki (Liên Xô cũ) do nhà thơ Valentin Xôrôkin, phó Giám đốc Học viện và GSTS Vladimia Xmirnốp đã sang Việt Nam giảng dạy tại trường Viết văn Nguyễn Du năm 1987.
Từ phải qua: Phó GS-TS Phạm Vĩnh Cư, GS Vladimia Smirop, nhà thơ Nguyễn Việt Chiến, GS Hiệu trưởng trường Đại học Maxim Gorki Boris Nicolainicolaievich Taraxop, thiếu tướng Nguyễn Chí Trung trong ngày kỷ niệm 30 năm Trường Viết văn Nguyễn Du
V.XMIRNỐP
Văn học nghệ thuật nước nào cũng có nhiệm vụ nói lên sự thật với nhân dân, nhưng sự thật không như chụp ảnh mà là sự thật nghệ thuật. Chân lý nghệ thuật phải phục vụ con người, mang tính nhân bản. Đất nước chúng tôi 15 - 20 năm trở lại đây nói lên sự thật bằng ngôn ngữ nghệ thuật cũng còn những mặt bất ổn. Ở đây có nhiều nguyên nhân. Đồng chí M.X. Goocbachốp có nói: Đó là hiện tượng bị xói mòn về tư tưởng, tinh thần trong xã hội Xô Viết... Đó chính là sự lãng quên những giá trị hiện thực, đề cao tâng bốc những giá trị giả. Tôi không giỏi các lĩnh vực khác, chỉ nói về văn hóa nghệ thuật. Các đồng chí đều biết trong lĩnh vực văn học nghệ thuật, quan điểm dung tục về chức năng, nhiệm vụ, sứ mệnh nghệ thuật đưa đến việc lạm dụng và làm méo mó các khái niệm cơ bản nhất về thẩm mỹ ở các diễn đàn của nó. Một số người lợi dụng chức quyền luôn luôn hô hào giá trị, chân lý… y như lúc nào sự thật cũng đã bỏ sẵn trong túi rồi. Họ đầu cơ tư tưởng, lấy những tôn chỉ của chúng ta để làm ra tác phẩm mà sức sống những tác phẩm đó nhiều khi không được một ngày. Tác phẩm của họ rỗng tuếch, họ trích dẫn Mác, Ăngghen, Lê-nin, ông này ông nọ... Nếu ai không thích, không đồng ý lời họ nói kiểu ấy tức là chống lại quan điểm Ăngghen, Mác...
Văn học chúng tôi (phần nào đó) lâm vào tình huống khó khăn, mặc dầu có nhiều nhà văn chính đáng sáng tạo nhiều tác phẩm hay. Nhưng tôi muốn nói đến vấn đề tồn tại trong văn học. Sêkhốp từng nói: Văn học không nên khoan nhượng với những gì là tầm thường... Còn tình trạng tiêu cực này ở chúng tôi: Có những người cầm bút không ra gì nhưng tác phẩm của họ đoạt giải thưởng cao vì họ có quyền, có thế. Tiếng Nga có hai từ phục vụ và công cụ. Hai từ đó nhiều người đánh lẫn hoặc nhầm lẫn. Họ cố tình biến phục vụ thành công cụ. Khi đọc những bài phê bình, tâng bốc của họ, tôi thấy đến như L.Tônxtôi, Puskin cũng không được khen tới mức ấy. Nhiều nhà văn hiện nay được khen mà không hề đỏ mặt. Tất nhiên điều đó đi đến kết quả thảm hại: tình hình văn học bị lệch lạc, méo mó. Họ sản sinh ra hằng hà sa số những người giống nhau, không bản sắc, lu mờ, ngày càng đại trà, đối lập với nền văn học Nga vĩ đại. Chính số đó lăng nhục nền văn học Nga của chúng ta. Văn học bao giờ cũng bênh vực những con người cùng khổ, bảo vệ những người bị lăng nhục. Thời Đôttôiépxki cũng vậy. Bây giờ trong văn học hình thành thứ chủ nghĩa tôi đòi, làm quan văn học, chứ không phải sáng tạo. Kết quả của nó là làm ảnh hưởng không tốt đến thế hệ người viết trẻ. Có người có tài năng thực sự gặp rất nhiều khó khăn. Tài năng đó bị chụp mũ nào là bôi nhọ chế độ, xa rời Đảng, xa rời nhân dân...
Ngay tại Đại hội 27, trong báo cáo chính trị đã nói tới việc nền phê bình đã từ bỏ chức năng của nó, từ bỏ cái roi trên mình ngựa để làm việc phục vụ các nhà văn cấp tướng. Những tác phẩm nói thẳng sự thật cay đắng, hiện thực tiêu cực bị cấm đoán, cho là bôi nhọ chế độ. Nếu có nhà văn nói trong xã hội cũ có cái đẹp truyền thống, thì bị chụp mũ: xa rời thực tế, xa rời lập trường giai cấp công nhân. Các giai đoạn lịch sử của đất nước chúng tôi đầy kịch tính. Nhà văn nào khắc họa chân thực những mâu thuẫn của các giai đoạn đầy kịch tính đó thì người ta lại cho rằng: anh thóa mạ lịch sử, xúc phạm thành quả xã hội. Đặc biệt những khía cạnh có tính bi kịch của con người, những cái gì riêng của con người bị cấm kỵ: Người ta bảo: cái bi mâu thuẫn với bản chất của chủ nghĩa xã hội. Họ đi ngược lại chân lý, trái với câu châm ngôn: mọi người phải phục tùng chân lý, chứ chân lý không phục tùng ai cả!
Trong văn học, văn hóa nghệ thuật chúng tôi, có những nhà văn bất đồng với những biểu hiện tiêu cực trên đây của chế độ mới hoặc không chống đối cách mạng nhưng bị xử lý oan. Họ viết những vấn đề rất gây cấn, họ tìm tòi sâu sắc, táo bạo. Người ta cố tình bỏ quên tác phẩm của họ, không để cho nhân dân biết tới họ. Mà sự thật nhiều tác giả trong số đó là những nhà văn hóa của Liên Xô và nhân loại. Bây giờ đã đến lúc phải đặt vấn đề trả lại những giá trị đích thực cho những tác phẩm của họ. Tên tuổi của họ dần dần được in lại. Tác phẩm của họ in hàng loạt làm chấn động dư luận, được nhân dân ngưỡng mộ nhưng không hề hoài nghi. Trước đây người cứ sợ làm lung lạc nhân dân. Nay khi tác phẩm của họ ra mắt công bố vì không thấy thiệt hại gì ngược lại thì nhân dân ủng hộ và càng tin Đảng, tin chế độ hơn. Một số nhà văn, nhà thơ, tác phẩm của họ in tới hàng triệu bản. Ba năm trước đây những tên tuổi ấy không được nhắc đến hoặc bị thóa mạ. Ví dụ như nhà văn thiên tài Platônốp chết năm 1950, tác phẩm bây giờ mới được in. Một nhà văn, gốc Nga, rất lớn, có phong cách nghệ thuật mới, tư tưởng lớn - Giamentin thì phải sống lưu vong. Mikhaiin Bunđakốp cũng trong trường hợp các nhà văn khác. Năm ngoái tạp chí Mátxcơxa in tác phẩm của Vlađimia Nabôcốp (lưu vong ở Mỹ). Đây là một nghệ sĩ lớn thiên tài, phong cách độc đáo không ai có thể bắt chước được. Lần đầu tiên người ta in lại thơ của một nhà thơ lớn bị cách mạng xử lý oan năm 1951, (từ lúc ấy không còn ai nhắc đến tên ông). Đó là Nicôlai Bunicốp, chồng của Acmatôva và là thầy của Exêin. Một trường hợp khác như nhà thơ đồng quê Nga cũng bị xử lý oan 1930, vì bị xem là đại diện cho tư tưởng Kulắc tên là Gluítx. Ông là người biến những môtip của thơ ca dân gian Nga thành vũ trụ thi ca. Vlađimia Letnhicốp, một nhà thơ phức tạp, có những sáng tạo về ngôn từ rất tuyệt vời, một người tử vì đạo, có thể nói ông đã tạo ra ngôn ngữ thi ca mới cho loài người. Những năm gần đây người ta cũng đã cho xuất bản cả những tác phẩm tượng trưng chủ nghĩa...
Sự đổi mới là tất nhiên, tất yếu. Sự đổi mới trong nhìn nhận, đánh giá, sáng tạo nghệ thuật cũng vậy. Chúng tôi, và tất nhiên tất cả chúng ta, ai cũng mong mình mang một khuôn mặt thôi. Khuôn mặt từ nhà, ra đường, đến cơ quan chỉ một.
Huế 2-3-87
HOÀNG VŨ THUẬT ghi
(SH25/6-87)
LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.
NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.
Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.
ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH Phóng sự điều tra
THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.
Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.
Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.
Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.
TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.
AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.
Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)
HOÀNG NGỌC HIẾN (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.
THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.
HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).
NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.
LÊ ĐẠT Đường bụi trang lịch cũ ếp ếp đàn thời gian L.Đ
HOÀNG NGỌC HIẾN (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).
VÕ VĨNH KHUYẾNBa mươi năm, sau khi Bác qua đời (1969 - 1999) có nhiều công trình nghiên cứu, nhiều chuyên luận và khá nhiều bài viết trên các báo, tạp chí trong và ngoài nước về thơ, văn của Bác. Quy mô và mức độ có khác nhau. Tuy vậy, vẫn có chỗ chưa được khảo sát một cách đầy đủ, chưa được đầu tư nghiên cứu một cách thỏa đáng. Trong phạm vi, khả năng cá nhân và nội hàm vấn đề, chúng tôi mạnh dạn trình bày một số suy nghĩ về thơ Bác viết cho thiếu nhi.