Đầy ắp nhân tình trong truyện ngắn Mường Mán

16:18 29/06/2009
NGUYỄN KHẮC PHÊ     (Đọc “Cạn chén tình” - Tuyển tập truyện ngắn Mường Mán, NXB Trẻ, 2003)Với gần 40 năm cầm bút, với hơn hai chục tác phẩm văn xuôi, thơ và kịch bản phim, nhà văn Mường Mán là một tên tuổi đã quen thuộc với bạn đọc, nhất là bạn đọc trẻ. Có lẽ vì ấn tượng của một loạt truyện dài mà ngay từ tên sách (Lá tương tư, Một chút mưa thơm, Bâng khuâng như bướm, Tuần trăng mê hoặc, Khóc nữa đi sớm mai v...v...) khiến nhiều người gọi ông là nhà văn của tuổi học trò, trên trang sách của ông chỉ là những “Mùa thu tóc rối, Chiều vàng hoa cúc...”.

Một người viết tạo được dấu ấn như thế (dù là với lứa tuổi nào) cũng đã là quý, nhưng đọc “Cạn chén tình”, chúng ta còn gặp một cây bút truyện ngắn đặc sắc, một “Mường-Mán-khác”.

Điều đặc biệt dễ thấy hơn cả là trong tuyển tập dày dặn gồm 48 truyện ngắn này có quá nửa là những truyện viết trước năm 1975, khi tác giả là phóng viên báo chí Sài Gòn ở chiến trường miền Trung. Lâu nay, không ít người, khi nói về thế hệ nhà văn ở miền Nam trong giai đoạn này thường chỉ lưu ý đến những cây bút “phản chiến” hoặc những kẻ “bồi bút chống cộng”; Mường Mán có con đường riêng của mình. Trên những trang văn của anh hầu như không có tiếng bom đạn, không miêu tả trận đánh nào, cũng không thấy những “cuộc đấu” quyết liệt về ý thức hệ, về chuyện thắng bại “địch - ta” mà đầy ắp nhân tình - tình yêu quê hương, trai gái, vợ con, bạn bè..., cả những tình yêu thoáng qua, những kẻ bạc tình và bao trùm lên tất cả là tình yêu thương của tác giả đối với những cuộc đời bất hạnh, những số phận trớ trêu.

Có thể có bạn đọc sẽ trách tác giả lảng tránh những “điểm nóng” của thời cuộc và hẳn rằng đó không phải là cách tốt nhất để nhà văn phản ánh cuộc sống sôi động mấy chục năm qua như nhiều người đòi hỏi. Nhưng một nhà văn được bạn đọc nhớ đến trước hết nhờ có cách thể hiện cuộc sống với bút pháp riêng, xây dựng được một thế giới nghệ thuật độc đáo giàu sức truyền cảm và gợi nghĩ đến những vấn đề sâu xa về lẽ sống ở đời, chứ không phải là viết về đề tài “nóng” hay “lạnh”, “lớn” hay “nhỏ”. Nhiều truyện ngắn trong “Cạn chén tình” đã tạo được hiệu quả nghệ thuật như thế. Cần nói thêm là tuy tác giả không trực tiếp viết về chiến tranh, nhưng những đảo lộn và dư âm của cuộc chiến khốc liệt để lại dấu ấn sâu sắc trong nhiều truyện ngắn. Và ngẫm cho cùng, quả bom hay viên đạn nổ bùng trong giây lát, nhưng hậu quả của nó, nỗi đau nó gây ra thì đeo đẳng con người ta suốt cả cuộc đời. Bà mẹ của Phan suốt ngày đêm, từ năm này sang năm khác, mỏi mòn tựa cửa đợi con về; cô em gái mỗi lúc quá buồn lại bịa chuyện mẹ chết để gọi một người bạn của Phan về cho có bóng dáng đàn ông trong nhà, nhưng bà mẹ nhất quyết không cho ai bước vào cửa, nếu không phải là Phan! Và thảm kịch đã xảy ra khi người yêu của cô em gái đặt chân lên thềm, bà mẹ đã túm đầu một bức tượng đập lên đầu chàng trai...(Truyện “Bi kịch”) Nhân vật không tên trong truyện “Người đàn ông hay cười” ba lần li hôn, không sao kiếm được việc làm chỉ vì cái tật hay cười, ngay cả trong đám tang và trước nỗi bất hạnh của người đời! Mãi rồi người ta mới hiểu người cựu chiến binh ấy vì “một miểng bom hay đạn gì đó nhỏ xíu kẹt lại trong hộp sọ không thể gắp ra... thỉnh thoảng gây những xung động trêu ngươi, buộc anh phải nở những nụ cười ngoài ý muốn!” Truyện “Bi kịch” viết từ năm 1972, truyện sau viết năm 1995; tác giả không nói rõ, nhưng độc giả nếu quen phân tích nhân vật theo kiểu “địch-ta” có thể nhận ra “người đàn ông hay cười” là một chiến sĩ cách mạng. Còn Phan? Anh lên “rừng” theo cách mạng, hay đi lính “cộng hoà”, hay chỉ vì thất vọng trước thời thế mà bỏ nhà phiêu bạt? Sự mơ hồ này có lẽ là chủ ý của tác giả và nhờ đó, truyện có ý nghiã khái quát hơn, có sức sống lâu hơn. Cũng vì thế, mảng truyện viết trước năm 1975 vẫn “liền mạch” với những truyện ngắn của tác giả viết trong những năm gần đây. Quả là bi kịch những người mẹ mất con - nói rộng hơn, nỗi đau “tan-hợp” thời nào cũng có. Hàng ngàn gia đình bất hạnh vì tai nạn giao thông, vì ma tuý trong những năm hoà bình vừa qua là điều ai cũng biết...

Tuy thế, Mường Mán không phải là cây bút “trung lập” hay “mất lập trường”. Chỉ một truyện ngắn “Những mùa trăng ca múa” viết năm 1972 với hình ảnh chiếc mũ cối bộ đội, với “o Dương” cùng những đồng chí du kích đánh Tây ở làng quê anh được miêu tả qua những trang văn thật đẹp và đậm đà tình nghiã đã thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với những người đã hy sinh vì Tổ Quốc, thể hiện tình yêu da diết đối với quê hương. Giọng điệu Huế, hình ảnh Huế và làng Chuồn quê anh thấm đẫm trên rất nhiều trang sách. “... Tôi bỏ những đường phố lớn,lẩn lút trốn vào Đại Nội men theo chân thành cổ. Bóng chiều và niềm im lặng tuyệt vời thả trí tôi tận đáy hồ xanh. Trên mặt hồ xanh, tôi ngồi xuống, lòng thanh thản nhẹ tênh, cái mũ cối úp lên đùi. Cái mũ cối già nua bạc màu kỷ niệm. Tôi nhìn cái mũ và nhớ o Dương...Tôi im nghe tiếng hát o xưa lồng lộng vọng về. Tôi hát, hát say mê những tiếng hát đầu lòng xưa, mơ hồ thấy vầng trán quấn quýt tóc bay của o khẽ chạm tới vầng trăng vô hình nào đó...” (Tạp chí “Văn nghệ Quân đội” từng in lại truyện này với lời giới thiệu trân trọng của nhà văn Nguyễn Khải.) Trong truyện “Về giữa mùa hè” (viết năm 1973) in đầu cuốn sách với rất nhiều chi tiết, nhân vật chân thật như là một đoạn hồi ký thì tác giả đã dành những dòng thật xúc động khi viết về người Cha kính yêu của mình đã hy sinh trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất...

Cho dù vậy, phần nhiều trong “Cạn chén tình” vẫn là những câu chuyện rất khó xác định đề tài, với những cảnh đời có thể gọi là “nhỏ bé”, những kỷ niệm nhẹ nhàng và nhiều khi như mơ hồ nữa. Nhưng có lẽ chính vì thế, nó gần gũi với người đọc, trang sách gấp lại, nhiều nhân vật vẫn vương vấn trong lòng độc giả. Có ai lại không xót xa, bâng khuâng trước số phận của Ngâu - cô gái 17 tuổi suốt ngày cô đơn trên tầng gác vì tai nạn giao thông tiện đứt một chân và cướp mất một mắt của cô, đêm đêm chờ đón “những que diêm hy vọng” loé lên ngoài tường thành xuất hiện cùng với hình bóng của một chàng trai và sau đó là những bức thư không địa chỉ; thật xót xa vì sứ giả lặng lẽ xuất hiện đêm đêm để an ủi Ngâu lại chính là anh trai cô! Anh đâu ngờ “trò chơi” anh bày ra để em đỡ cô độc chỉ có thể dẫn đến vô vọng khi cô gái không ngớt đòi xuống gặp chàng trai bên tường thành rồi mê sảng suốt đêm khiến anh phải tìm đến một vị linh mục xưng tội. Nhưng Chúa Trời hẳn cũng phải bó tay trước nỗi bất hạnh này!

Truyện ngắn Mường Mán vẫn nhiều mơ mộng và nhẹ nhàng nhưng thật sự có “sức nặng”. “Cạn chén tình” là một cuốn sách “nặng ký” về nhiều phương diện. Chỉ có điều “khó hiểu” là một cuốn sách đầy ắp nhân tình như thế, sao lại lấy tựa “Cạn chén tình”, dù đó là một truyện ngắn hay.

Trường An - Huế 12/2003
N.K.P
(179-180/01&02-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.