Đầu xuân đi tìm ông Di Lặc

16:30 16/09/2008
BẢO NHÂNỞ nước ta, Huế được xem là kinh đô của Phật giáo, không phải bởi vì ở đây có nhiều chùa tháp, đông đảo tín đồ theo Phật hay từng có một thời là cái rốn của Phật giáo Việt , biệt xuất nhiều bậc cao tăng đương đại. Theo chúng tôi, nói như nhà viết kí Hoàng Phủ Ngọc Tường, bởi vì tính cách Huế, không phải Nho, mà chính là Thiền.

Đối với tín đồ Phật giáo, đón Tết mừng xuân gắn liền với ý niệm về một vị Bồ Tát có tên Di Lặc. Di Lặc là hiện thân của mùa xuân, tâm xuân miên viễn, của hạnh phúc viên mãn mà ai ai cũng luôn ý hướng đến.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai

Xuân của đất trời tự nhiên có tháng có năm nên có khứ có lai, đắp đổi vô thường tuần hoàn vần vũ: xuân qua hè đến, đông hết xuân về. Xuân của cõi lòng thì không như thế. “Một ít nắng, vài ba sương mỏng thắm. Mấy cành xanh, năm bảy sắc yêu yêu. Thế là xuân. Tôi không hỏi chi nhiều. Xuân đã sẵn trong lòng tôi lai láng…” (Xuân Diệu – Xuân không mùa). Có hạnh phúc thì có mùa xuân. Hạnh phúc thật sự của con người cũng không phải từ bên ngoài đến, mà từ sự buông xả ở ngay nội tâm. Nụ cười hồn nhiên rạng rỡ của ông Di Lặc là biểu hiện của hạnh phúc tràn đầy, của tâm xuân bất diệt ấy.
Di Lặc Bồ Tát - một vị Phật tương lai.

Bồ Tát Di Lặc là nhân vật lịch sử, nhưng cũng mang đầy tính huyền thoại. Lúc Phật Thích Ca còn tại thế, vị Bồ Tát này xuất thân trong một gia đình dòng dõi Bà la môn ở nam Ấn Độ. Di Lặc (Maitreya) là họ, Trung Hoa dịch nghĩa: Từ thị. Tên của Bồ Tát là A Dật Đa (Ajita), Trung Hoa dịch: Vô năng thắng. Sở dĩ mang họ Từ là vì có thuyết cho rằng khi mang thai, mẹ của Bồ Tát khởi lòng từ bi, phát nguyện ăn chay, bố thí, không sát sanh. Di Lặc từng gặp Phật Thích Ca, xuất gia thọ giới Bồ Tát, tu hạnh từ bi hỉ xả, ít người hơn được, thế nên gọi là Vô Năng Thắng. Ông đã được Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sàkyamuni) thọ kí sẽ làm Phật ở đời vị lai trong cõi Ta Bà (Sahà) này.
Theo đó Di Lặc sẽ là vị Phật thứ năm(1) và cuối cùng xuất hiện trên trái đất này, hành trạng có nhiều nét giống Đức Phật Thích Ca trong lịch sử. Hiện nay, Bồ Tát đang thuyết pháp giáo hóa ở nội điện của cung trời Đâu Suất (Tushita) - tầng trời thứ tư trong sáu tầng trời cõi Dục.
Trong truyền thống đại thừa, Di Lặc cùng với Văn Thù Sư Lợi, Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Vô Tận Ý, Bảo Đàn Hoa, Dược Vương, Dượng Thượng là tám vị Bồ Tát - đại đệ tử của Đức Phật. Bồ Tát Di Lặc thường xuất hiện trong các kinh điển nổi tiếng của Phật giáo Đại thừa như Diệu Pháp Liên Hoa, Duy Ma Cật, Hoa Nghiêm, Viên Giác, v.v… Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, ở phẩm Tựa Thứ nhất có đề cập đến tiền thân của Di Lặc qua lời kể lại của Văn Thù Sư Lợi về Cầu Danh và Diệu Quang Bồ Tát. Diệu Quang là tiền thân của Văn Thù Sư Lợi còn Cầu Danh chính là Di Lặc Bồ Tát. Song ở đây câu chuyện mang nhiều ý nghĩa biểu trưng. Di Lặc là tượng trưng cho Thức(2) - vốn điên đảo mê lầm còn nhiều mắc kẹt giới hạn, còn Văn Thù Sư Lợi ẩn dụ cho trí tuệ viên minh. Thế nên, khi có điềm lành hi hữu, thức không thể suy lường hết được, phải nương vào trí, nên Di Lặc phải thay mặt đại chúng hỏi Văn Thù Sư Lợi. Đồng thời cũng vì thức vốn “quen mất nết” dong ruổi theo danh tướng trần cảnh như thế mà Cầu Danh học đâu quên đó, trần đọa lao đày, nhiêu khê lắm nỗi. Nếu có sự hồi quang phản tỉnh thì thức kia mới chuyển thành trí. Cho nên không ngẫu nhiên mà Cầu Danh phải nhờ Diệu Quang Bồ Tát hướng dẫn.

Tại Trung Quốc, khi pháp môn Tịnh độ chưa thịnh hành, thì tín ngưỡng Di Lặc là xu hướng khá phổ biến. Đọc Đại Đường Tây vực kí, chúng ta biết trên đường thỉnh kinh, Huyền Trang thường niệm danh hiệu Di Lặc cầu sự yểm trợ cho tai qua nạn khỏi từ vị Bồ Tát này và nguyện lúc lâm chung được thác sanh lên cung trời Đâu Suất để thị phụng Bồ Tát. Ở Tây Tạng, Di Lặc vẫn được thờ cúng rộng rãi. Chúng ta có thể hình dung tôn tượng của Di Lặc trong Phật giáo Tây Tạng qua dự án pho tượng Di Lặc bằng đồng cao nhất thế giới (cao 152m) tại Kushinagar, Uttar Pradesh, bắc Ấn Độ.
Những người theo truyền thống Phật giáo đông độ còn biết đến Di Lặc qua truyền thuyết về ba nhân vật lịch sử độc đáo của Thiền tông: Phong Can, Hàn Sơn, Thập Đắc và đặc biệt hơn, là qua giai thoại về Bố Đại hòa thượng.

Bố Đại hòa thượng (? – 916)
Bố Đại hòa thượng, tự Khế Thử, biệt hiệu Trường Đinh Tử, là vị thiền tăng Trung Hoa sống vời đời Lương (Ngũ Đại: 907 – 960), ở đất Minh Ba, huyện Phụng Hóa, Châu Ninh (nay thuộc tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc).
Bên cạnh nhiều thiền thoại siêu ngôn ngữ của một bậc đã đạt đạo như thường thấy ở các ngữ lục, xung quanh hành trạng của vị hòa thượng này có nhiều nét khác người khá nổi bật. Các thư tịch thường miêu tả Sư là người có vóc dáng thấp lùn, mập mạp, bụng phệ da đen, vẻ mặt nhân từ hay mỉm cười vui vẻ, nói năng tự tại thất thường, ăn ngủ tùy tiện, tính tình hài hước ngược đời, xuất xử lạ lùng mang tư chất cuồng thiền. Đặc biệt, Sư thường dùng một cây gậy quảy trên vai một túi vải lớn, trong có đựng bình bát, theo sau có năm sáu đứa trẻ, dạo khắp thôn quê thị thành, thấy ai có vật gì cũng xin, ai cho gì cũng đều nhận tất. Khi túi đã đầy thì vác đến một gốc cây, quy tụ trẻ con và người nghèo… rồi phân phát hết cho họ. Cứ “sớm vác túi đi tối vác về” như thế, nên thiên hạ hài hước “ban” thêm cho Sư một cái tên Bố Đại hòa thượng (hòa thượng vác túi vải). Nhưng với thần thông và tài tiên tri thấu thị thời tiết sau thì ai cũng phải lạy Sư là Hoan Hỷ Phật. Người nào được Sư khất thực thì hôm ấy mua may bán đắt. Gia đình nào có Sư đến hóa duyên thì năm ấy làm ăn thịnh vượng, trên thuận dưới hòa. Tính hay nằm đất mà mình không lấm bụi nhơ. Ngồi ngoài mưa hay trên tuyết nhưng không hề ướt áo. Khi đang nắng mà bỏ dép đi guốc thì trời sắp mưa. Đêm nào ngủ ngoài đường thì sáng mai ắt trời phải khô và nắng đẹp. Viên tịch rồi, người ta vẫn thấy Sư đang rong chơi ở nơi khác.

Cuốn Song Lâm Phó Đại Sĩ Ngữ Lục Hành Thế ghi rằng: “Đến niên hiệu Trinh Minh năm thứ ba, tháng ba, mồng ba, Sư ngồi trên một tảng đá lớn sau chùa Nhạc Lâm thuyết một bài kệ:
Di Lặc chơn Di Lặc
Hóa thân thiên bách ức
Thời thời thị thời nhân
Thời nhân giai bất thức

(Ta đây thiệt Di Lặc, hóa ra ngàn vạn thân. Thường đứng trước người đời, người đời chẳng ai biết). Từ đó người ta xem Bố Đại hòa thượng là hóa thân của Bồ tát Di Lặc.
Ông nhịn ăn để mặc – theo cách gọi dân gian
Có thể nói bốn kiểu ảnh vẽ và tượng của Di Lặc như thường thấy ở các chùa đều được gợi cảm hứng từ chân dung của Bố Đại hòa thượng. Thứ nhất, dáng người đứng dang chân, hai tay giơ lên trời, miệng cười to, vẻ mặt rạng rỡ; thứ hai, đứng vác một bao to trên vai; thứ ba, đứng trên một chiếc bao to và thứ tư là kiểu mẫu thường thấy nhất: ngồi cười thoải mái, có năm sáu đứa trẻ vây quanh, đứa chọc mắt, đứa khoáy tai, đứa móc miệng, đứa sờ rốn, v.v. Mỗi kiểu, mỗi dáng đều được tiền nhân tạc theo những ý nghĩa riêng nào đó. Đáng chú ý nhất là kiểu dáng thứ tư. Ở đây sáu đứa bé là tượng trưng cho lục tặc như người Việt ta vẫn thường bảo tam bành lục tặc(3). Di lặc là bậc trí tuệ đã không còn bị phiền não mê hoặc, tự tại chuyển hóa được sáu “nhóc ranh” thành sáu bạn thân để chơi đùa. Thế nên dù chưa thành Phật, ông vẫn hạnh phúc tràn trề. Nhưng dù thể hiện Di Lặc dưới kiểu dáng nào thì mẫu số chung vẫn là những nét độc đáo: người mập đến nỗi không thấy cổ, miệng cười rộng đến cả mép tai, đặc biệt là cách ăn mặc thoải mái luôn trìa cái bụng phệ to tướng cho thiên hạ cười. Nhiều người vẫn bảo rằng cái bụng ấy ngoài ý nghĩa là kho Như Lai tạng vô tận dung chứa tất cả mọi người, mọi hoàn cảnh còn tượng trưng cho hạnh tri túc “thà nghèo mà giữ đạo nhà”. Nụ cười tràn đầy hoan hỷ mà chúng ta vẫn thường gọi nụ cười sung cười sướng thứ 36 ấy là biểu hiện của đời sống nội tâm sung mãn của một người đã buông xả hoàn toàn mọi cố chấp, vướng mắc. Có người miêu tả cái bụng vô tâm và nụ cười hạnh phúc ấy một cách văn vẻ và khéo léo hơn:
Đại đổ năng dung, dung thế gian nan dung chi sự
Từ nhan vi tiếu, tiếu thiên hạ khả tiếu chi nhân

(Cái bụng lớn có thể dung chứa, dung chứa những việc khó dung chứa của thế gian
Nét mặt từ bi chúm chím cười, cười những người đáng cười trong thiên hạ).

Bố Đại hòa thượng chỉ là một trong nhiều hóa thân của Bồ Tát Di Lặc nhưng không hiểu vì sao từ khi Bố Đại hòa thượng xuất hiện, người xưa lại chọn vị thiền tăng “hài hước” này làm nguồn cảm hứng chính để khắc họa chân dung Di Lặc? Phải chăng đây là một sự bổ sung thêm một hạnh tu hoan hỷ, hòa nhã, buông xả bên cạnh hạnh tu nghiêm túc, đoan chánh, mẫu mực. Người Việt , trong thiểu số tính cách dân tộc, có óc hài hước. Cứ nhìn vào kho tàng truyện cười, truyện trạng, thơ văn trào phúng, thơ bút tre và cách nói năng bông đùa hằng ngày thì sẽ thấy. Bởi thế, dẫu không phải là môn đồ của tín ngưỡng Di Lặc, nhưng họ rất thích tượng Di Lặc. Tất nhiên, ở tình huống thắc mắc “ngon ơ” này, họ không “vắng mặt”! Người Việt đã tiên phong giải mã và đưa ra cách gọi in đậm phong cách riêng của mình: Đức Phật Thích Ca lục niên khổ hạnh qua tượng Tuyết Sơn là ông nhịn ăn để mặc, còn Bồ Tát Di Lặc ở những bức tượng to béo, bụng phệ là ông nhịn mặc để ăn(4).

Xung quanh tượng ông “nhịn mặc để ăn” và luôn đem lại sự may mắn này, có người đã “bật mí” nhiều câu chuyện khá thú vị. Trước cửa nhiều ngân hàng của người Hoa thường có tượng ông Di Lặc. Đặc biệt, hầu hết các sòng bạc tại Hoa Kỳ, nơi có đông cư dân gốc Á Châu, trước cửa thường để tượng Di Lặc ngồi. Người ta tin là lấy tay xoa rốn Ông trước khi vào sòng bài sẽ gặp nhiều may mắn. Kinh Phật không hề dạy như vậy, nhưng niềm tin dân gian này đã thành huyền thoại và lây sang cả nhiều người da trắng. Theo một bản tin trên báo O. C. Register hai năm trước, một phụ nữ da trắng Hoa Kỳ trúng số độc đắc đã giải thích, mỗi khi mua vé số tại tiệm tạp hóa quen thuộc ở Huntington Beach, Quận Cam, bà luôn luôn lấy tay xoa bụng tượng Phật Di Lặc trên quầy tiệm này. Không hề gì, Phật Di Lặc không hề kỳ thị tôn giáo.
Vì sao mồng một tháng giêng âm lịch là ngày vía Di Lặc?

Cho đến bây giờ người ta vẫn không biết Di Lặc sanh và viên tịch ngày nào? Nhưng Phật tử không ai không biết ngày Tết Nguyên đán là ngày vía của Di Lặc. Ai đã chọn mồng một tháng giêng âm lịch làm ngày vía Di Lặc?
Có nhiều cách trả lời cho câu hỏi ấy, trong đó tôi thích nhất lời giải thích rằng: Ngày đầu một năm thật quan trọng. Tất cả mọi việc làm, cử chỉ phải thật nhẹ nhàng, thận trọng. Giận ai chi lắm cũng bỏ qua. Gặp nhau niềm nở chúc nhau những điều tốt đẹp. Từng tiếng nói lời ăn phải vui vẻ, hòa nhã. Tập quán đó nói lên lòng ao ước một năm may mắn, an vui, cát tường như ý. Thế nên, ngày mồng một Tết còn là ngày mang ý nghĩa tương lai và một lời chúc chân tình cũng là một lời hứa. Các tín đồ Phật giáo lấy ngày này làm ngày vía Di Lặc - vị Phật tương lai – là để tự hứa hẹn với lòng mình nỗ lực tu hành nhằm xây dựng cõi đời – cõi người hạnh phúc an lạc và rồi mai kia cũng sẽ thành Phật như Ngài.
                                                Huế, những ngày mùa đông bão lụt
                        B.N

(nguồn: TCSH số 227 - 01 - 2008)

 



--------------
[1] Năm vị Phật thuộc Hiền kiếp: 1. Câu lưu tôn, 2. Cân na hàm mâu ni, 3. Ca diếp, 4. Thích ca mâu ni, 5. Di lặc
2 Phật giáo quan niệm rằng Tâm của con người khi tỉnh táo giác ngộ là Trí, còn khi vọng động mê mờ là Thức. Có tám loại Thức: nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, mạt na thức, a lại da thức. Năm thức đầu thuộc về nhận thức của các giác quan. Thức thứ 7 - mạt na thức – gần giống với vô thức theo quan niệm của S. Freud. Tu hành là sự chuyển Thức thành Trí.
3 Tam bành: Bành Sư, Bành Kiển, Bành Chất. Theo quan niệm dân gian, đây là ba vị thần ở trong mỗi người, thường hay xúi giục người ta làm bậy, đến ngày Canh Thân cuối mỗi năm lại còn “mách lẻo” với ông Trời để cho người ta mau chết, các ông khỏi phải ngày đêm canh giữ! Lục tặc: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Sáu cơ quan cảm giác (sáu căn) này khi tiếp xúc với màu sắc, âm thanh, hương thơm, mùi vị, xúc chạm, kí ức (sáu trần), thói thường vẫn hay điều khiển con người hành động theo bản năng mê muội để rồi phiền não với thương ghét vui buồn bất an, tự đánh mất sự tỉnh táo, trí truệ của mình. Thế nên chúng được gọi là sáu tên giặc cướp.
4 Xem Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt , Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, tr. 254

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H

  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.