Xuân Diệu thuộc tầng lớp trí thức Tây học nhưng từng có tới 10 năm học làm thơ cổ điển, bởi thế ông nắm rất vững các kỹ xảo thơ ca truyền thống, thấy được sự đắc địa trong các sáng tác thơ ca cổ điển để phát hiện về các điển phạm của hệ thống nhà thơ cổ điển Việt Nam.
Tiểu luận “Các nhà thơ cổ điển Việt Nam” của Xuân Diệu được xuất bản nhiều lần (Ảnh 3 bìa sách) .
Vì thế mà phê bình thơ của Xuân Diệu có một phong cách riêng, một dấu ấn riêng luôn mang lại những nhã thú văn chương mới mẻ và giá trị độc đáo cho văn học.
Dấu ấn của sự đa thanh trong giọng điệu phê bình Xuân Diệu đặc biệt thể hiện qua Tiểu luận Các nhà thơ cổ điển Việt Nam.
Các nhà thơ cổ điển Việt Nam đã ghi dấu ấn đậm nét trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc với nhiều thành tựu rực rỡ. Đặc biệt những tác gia lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương… đã trở thành đối tượng, thi liệu nghiên cứu cho nhiều học giả sau này bằng nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Xuân Diệu cũng hướng đến các nhà thơ cổ điển, trải lòng mình với các nhà thơ cổ điển nhưng lại bằng con đường riêng của mình, con đường phê bình văn học.
Đến với phê bình thơ của Xuân Diệu, chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước lối lập luận khúc chiết, sắc sảo. Người đọc bị lôi cuốn bởi chất văn dào dạt thấm đẫm phong cách Xuân Diệu, khiến ông không lẫn với một ai khác, dẫu cùng nghiên cứu về cùng một đề tài cùng một tác giả văn chương trong cùng một thời kỳ văn học, nhưng Xuân Diệu đã tìm cho mình một cách diễn đạt riêng, một giọng điệu riêng trên hành trình phê bình văn học của mình.
Trong Tiểu luận Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, có lẽ ấn tượng lớn nhất vẫn là dấu ấn về sự đa thanh trong giọng điệu phê bình của Xuân Diệu.
Giọng điệu hóm hỉnh hóa
Khi viết hay khi nói Xuân Diệu thường “cù” người đọc, người nghe cười. Ông quan niệm cũng phải kích động như thế cho người nghe, người đọc sôi nổi lên, đỡ chán.
Điều này đã làm cho những bài viết của ông bao giờ cũng dí dỏm, đọc rất thú vị. Chính vì thế đọc hai câu thơ sau của Nguyễn Trãi:`
Kho thu phong nguyệt
đầy qua nóc
Thuyền chở yên hà
nặng vạy then…
Xuân Diệu hóm hỉnh bình luận rằng: “Ức Trai thật giàu có, kho của Nguyễn Trãi thu chứa gió trăng mà đầy đến nỗi vượt qua nóc, thuyền của Nguyễn Trãi chở nặng khói và ráng đến nỗi oặn vẹo cả then thuyền;
Nguyễn Trãi giàu thật! Người lại còn tích trữ vàng bạc nữa, đặng để gia tài lại sau cho con cháu; vàng là vàng của hoa cúc; bạc là bạc của hoa mai, chữ thong thả đúng là để nói đùa:
Thong thả lại toan nào của tích
Bạc mai vàng cúc để cho con”
![]() |
Hoặc khi đọc hai câu thơ sau của Nguyễn Khuyến:
Núi sông mưa gió
sắp trùng dương
(9 tháng âm lịch)
Nghèo ốm, về hưu,
rượu lắm: cuồng!
(dịch)
Xuân Diệu bình: “Đến nay cụ Tam Nguyên cũng cuồng. Cuồng chứ không điên đâu. Điên là mất trí. Cuồng thì vẫn tỉnh táo, nhưng có một thứ hơi điên nào đó bốc lên, như xáo trộn tất cả. Khi chưa đến mức nhiều là cuồng, thì đến mức ít hơn, tức là sơ cuồng, bước đầu của sự cuồng; cuồng và sơ cuồng đều cao hơn ngông.
Cụ Tam Nguyên nói: Chư quân mạc tiếu ngã sơ cuồng, các bác đừng chê cười ta là bắt đầu cuồng!”. Những lời bình lý giải về “sự cuồng” lòng vòng mà đơn giản như lẽ tự nhiên.
Xuân Diệu cắt nghĩa sự khác nhau giữa điên và cuồng, rồi lý giải các cung bậc của cuồng như xếp đặt cuồng là trạng thái giữa điên và ngông. Đó chính là tâm trạng phức tạp của cụ Tam Nguyên, đã cáo quan về ở ẩn mà vẫn chưa yên thân.
Giọng điệu uyên bác hóa
![]() |
Xuân Diệu là một trí thức Tây học lại từng có tới 10 năm học làm thơ cổ điển, bởi thế ông am hiểu tường tận các kỹ xảo thơ ca truyền thống.
Sang trọng và hiện đại trên nền truyền thống, đó là cốt cách thơ ông. Cái chất trẻ trung nồng cháy, si mê và hiện đại trong thơ Xuân Diệu đã hòa mình vào dòng thơ ca dân tộc, cùng với thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc, thơ là sự tiếp biến các nền văn hóa.
Nếu như trong sáng tác thơ ca, Xuân Diệu đã rất uyên bác trong dùng từ, dùng ngữ, hình ảnh, thanh điệu… thì trong văn phê bình Xuân Diệu cũng rất “đắc đạo” trong cách chọn lựa từ ngữ sắc sảo của mình.
Đánh giá tài năng Tú Xương, Xuân Diệu viết: “Tôi nghĩ chúng ta cần phải lần trở lên Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Hồ Xuân Hương và thống nhất hai luồng trữ tình và trào phúng lại trong một: Một trái tim, một linh hồn, một trí tuệ, một tài năng, của một thi sĩ. Và tôi gọi: Nhà thơ lớn Tú Xương”.
Để nhấn mạnh tài năng Tú Xương, Xuân Diệu đã không ngần ngại đặt Tú Xương cạnh các nhà thơ lớn nhằm khẳng định một cách chắc chắn cái dấu ấn riêng của Tú Xương.
Chữ “một” lặp đi lặp lại năm lần đã khắc sâu vào tâm khảm người đọc nhiều cái tài năng lớn lao của Tú Xương. Chỉ có một tấm lòng như Tú Xương, một phong cách thơ độc đáo khác người như Tú Xương. Một trái tim, một linh hồn, một trí tuệ, một tài năng, của một thi sĩ Tú Xương, duy nhất Tú Xương không lẫn vào ai được. Cách bình ấy, cách nói ấy thật thông minh và sâu sắc.
Đây không phải là kỹ thuật đâu! Đấy là tâm hồn truyền sức sống cho ngôn ngữ".
Phải nghiên cứu kỹ càng, phải đồng cảm sâu sắc Xuân Diệu mới có những phát hiện tinh tế như thế về hồn thơ Xuân Hương. Ai cũng biết, bò lổm ngổm, mấp máy, khom khom, ngửa ngửa, chũm chọe, hi ha, cốc om, khua, vỗ, um, xoe, xóe, loét, rì; bom, chòm, om, mòm, tom hoặc ọp ẹp: Heo, leo, kheo, teo, lèo; vốn dĩ là những động từ và cách gieo vần trong thơ Hồ Xuân Hương.
Giọng điệu bình dân hóa
Có khi lời bình của Xuân Diệu không cầu kỳ mà giản dị như vắt ra từ chính cuộc sống dân dã vốn có của lẽ đời vậy.
Trong Lục Vân Tiên, khi Trịnh Hâm được tha, Nguyễn Đình Chiểu viết:
Hâm rằng: “khỏi chết rất vui”
Vội vàng cúi lạy, chân lui ra về
Xuân Diệu bình: Thật không còn gì tư thế của một con người, nó thốt ra mồm mừng rỡ: “Khỏi chết rất vui!”, rồi ngoắt đuôi cút thẳng.
Mắng Trịnh Hâm, Xuân Diệu không ngần ngại chỉ thẳng nó thốt ra mồm mừng rỡ: “Khỏi chết rất vui!”, rồi ngoắt đuôi cút thẳng. Từ “mồm” và từ “ngoắt đuôi cút thẳng” ở đây được dùng rất thú vị. Nó giúp ta hình dung được điệu bộ thảm hại, hèn nhát của Trịnh Hâm, thái độ khinh bỉ của Xuân Diệu cũng lộ rõ khi ông nói hắn “ngoắt đuôi cút thẳng”.
Trong bài Sắm tết của Tú Xương có câu thơ cuối: “...Sang năm quyết mở ngôi hàng mứt/ Lại rưới thêm vào tí nước hoa”. Xuân Diệu bình: “Câu thơ kết, tinh quái làm sao! Nói được cái xảo trá làm hàng làm họ, lấy nước hoa nước hoét phủ trùm lên, át hết cái dơ bẩn! Tí nước hoa; tôi đọc thì tôi thấy cả một bà hàng béo bự môi bôi son đang chúm miệng lại, nói “tí nước hoa”, và đang ra hiệu vẩy ngón tay út”.
Xuân Diệu bình thơ mà như đang trò chuyện, cách nói của ông cùng với lượng từ ngữ nôm na sống động, người đọc như thấy hiện ra điệu bộ cử chỉ của người bình thơ thật giản dị mộc mạc.
Với cách dùng từ “nước hoa nước hoét”, Xuân Diệu không còn trong vai của một nhà phê bình mà trong vai của một người mua hàng đang đứng trước bà hàng béo bự môi bôi son đang chúm miệng lại, nói “tí nước hoa”, mà quan sát sự xảo trá của mụ ta một cách căm tức. Lối bình ấy quả đã có sự nhập thần ghê gớm.
Trong các sáng tác thơ ca của mình, Xuân Diệu đã có rất nhiều ý thơ hình ảnh thơ rất ấn tượng (Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần…), và ngay trong văn phong phê bình của mình, Xuân Diệu cũng chứng minh được bản lĩnh của một người cầm bút, với cách diễn đạt làm cho người đọc phải bất ngờ thán phục, với một cái tâm tha thiết yêu thơ, với một đôi tai biết thẩm âm trước một áng thơ đẹp.
Đúng như ai đó đã nói khi dấn vào lĩnh vực nghiên cứu phê bình, Xuân Diệu đã cầm theo câu ca “Mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội…”.
***
Hai tập Tiểu luận Các nhà thơ cổ điển Việt Nam của Xuân Diệu ra đời phần nào giúp ta hiểu được sự tri âm của một nhà thơ mới đối với các nhà thơ cổ điển. Nó xứng đáng được người đọc mọi thế hệ tiếp nhận và tôn vinh.
Đến với các nhà thơ cổ điển Việt Nam, chúng ta bắt gặp một giai âm mới của phê bình văn học, một lối cảm nhận riêng, một văn phong riêng, một sự đa thanh trong giọng điệu phê bình mà không phải ai cũng có được.
Vừa bình dân, vừa uyên bác, vừa dí dỏm và có thể còn nhiều giá trị khác nữa. Bởi lẽ: “Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp nằm ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt tầm thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được. Chỉ thi nhân là có thể xem mà biết được sắc đẹp, ăn mà biết được vị ngon ấy thôi”.
(Tựa Trích diễm thi tập - Hoàng Đức Lương)
Bản chất của thơ văn trước hết là vẻ đẹp, không phải vẻ đẹp bình thường mà là vẻ đẹp siêu phàm. Vỡ thế vấn đề về tiếp nhận văn học phải đạt đến một trình độ nào đó mới cảm nhận được vẻ đẹp ấy. Xuân Diệu là người đã làm được điều đó nhờ vào cảm xúc tinh tế, trí tuệ và tài năng sáng tạo thơ ca của mình.
Theo Th.s Phạm Diệu Linh Tổ Văn - Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp, Quảng Bình - GD&TĐ
Sáng thứ bảy 11-7, tại Nhã Nam Books N’ Coffee Sài Gòn (24A, đường D5, P.25, Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh), Nhã Nam tổ chức cuộc tọa đàm về cảm thức thẩm mỹ trong văn học Nhật Bản.
Nghệ sĩ Nhân dân (NSND) Đào Trọng Khánh thường được biết đến trong vai trò đạo diễn, nhà sản xuất hàng đầu của nền điện ảnh tài liệu Việt Nam. Ở tuổi 80, ông gây bất ngờ cho đồng nghiệp, công chúng khi vừa ra mắt cuốn sách Đất và người do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành. Tác phẩm tập hợp bài viết, hình ảnh và tư liệu lịch sử được ông tích lũy suốt hành trình làm phim cách đây đã 50 năm.
Người ta bàn nhiều về trường ca với phẩm tính trường hơi, trường sức, cảm hứng hùng tráng gắn với các sự kiện trọng đại của cộng đồng, quốc gia dân tộc. Nếu từ góc độ ấy, đặt vào lịch sử Việt Nam, có cảm giác rằng, đây là nguồn mạch sẽ sản sinh những trường ca bất hủ.
Nhà văn Nguyễn Thị Thanh Bình không phải là một cái tên xa lạ của văn chương. Dù khiêm tốn nói rằng mình không phải là nhà văn, nhưng với 16 cuốn sách đã xuất bản, trong đó có 12 tác phẩm dành cho thiếu nhi, chị xứng đáng có một vị trí trong giới, đặc biệt là trong “địa hạt” văn học thiếu nhi.
Tuyển thơ “Biển bắt đầu từ sóng” (NXB Đà Nẵng, 2020) tập hợp sáng tác của 108 tác giả do nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh, Chủ tịch Hội đồng thơ Hội Nhà văn TP Đà Nẵng chủ biên ra mắt trong tháng 5 như một món quà thơ ca đa thanh, lấp lánh.
Trong sự phát triển của văn học Việt Nam hiện đại, nhà văn Tô Hoài giữ một vị trí đặc biệt.
Nhân dịp ngày Quốc tế thiếu nhi 1-6 và hè 2020, NXB Văn học giới thiệu bộ ba tiểu thuyết thiếu nhi Từ giã tuổi thơ, Những ngày lưu lạc và Đảo đá kỳ lạ của nhà văn kháng chiến Nguyễn Minh Châu.
“Đoản khúc chiều phù dung” (NXB Trẻ) là tập sách thứ năm của nhà văn Vũ Văn Song Toàn. Một chút gì đó hơi ma mị, có hơi hướng liêu trai, có sự trải đời và suy ngẫm, như một người kể chuyện nhẩn nha, từng chút từng chút một, Vũ Văn Song Toàn dẫn người đọc đi hết “Đoản khúc chiều phù dung” với một nỗi buồn man mác.
Nhân dịp kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2020), NXB Văn hóa - Văn nghệ vừa giới thiệu đến độc giả nhiều tác phẩm đáng chú ý. Các tác phẩm cùng nhắc nhớ bạn đọc hôm nay về một lãnh tụ thiên tài, một tấm gương vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Tuy đã đi xa nhưng Người luôn sống mãi trong trái tim của chúng ta.
Nhân dịp Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2020), NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh vừa giới thiệu đến độc giả bộ sách “Nguyên cứu Hồ Chí Minh- một số công trình tuyển chọn” của PGS, TS Bùi Đình Phong.
“Bác dừng lại cúi đọc những chữ khắc sâu trên đá. Rồi Người hướng tầm mắt nhìn vọng hồi lâu về dải đất Tổ quốc trùng điệp… Bác dừng lại một chút nữa bên một dãy ghế đá thiên nhiên có nhiều hình dạng. Người nhìn sâu vào khoảng đất trời Tổ quốc biết bao đẹp đẽ nhưng đang đầy đau thương.
Nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển quên cuộc sống muộn phiền, thấy thư thái, nhẹ tênh mỗi khi đọc truyện Kim Dung.
Những năm gần đây, trên thị trường sách xuất hiện nhiều cuốn tự truyện. Hầu hết do tác giả tự viết chuyện người thật, việc thật mà bản thân đã trải qua, một số ít do người khác chấp bút.
Nhà văn người Áo Thomas Bernhard (1931 - 1989) lâu nay vẫn được xem là “người khổng lồ hùng mạnh nhất” của văn chương Đức ngữ kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Sự tấn phong ấy khiến cho, dù muốn hay không, Thomas Bernhard sẽ phải trở nên một tác giả đáng chú ý với không ít người đọc Việt Nam, nhất là khi vài tiểu thuyết quan trọng của ông được dịch ra tiếng Việt: “Kẻ thất bại”, “Đốn hạ”, và tác phẩm cuối cùng: “Diệt vong”.
Nhà xuất bản Quân đội nhân dân vừa xuất bản cuốn sách “Không thể lãng quên” của Thượng tá, nhà báo Trần Hoàng Tiến (Báo Quân đội nhân dân) vào đúng dịp kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhân kỷ niệm 45 năm ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nhà xuất bản Hội Nhà văn Việt Nam phối hợp với Quỹ “Mãi mãi tuổi 20” và Câu lạc bộ “Trái tim người lính” tổ chức xuất bản bộ sách quý “Nhật ký thời chiến Việt Nam” của nhiều tác giả do nhà văn, cựu chiến binh Đặng Vương Hưng chủ biên.
Trong hồi ức “Chuyện tôi” (Hồi ức của con trai nhà văn Nguyễn Huy Tưởng - Nguyễn Huy Thắng) (NXB Văn học), ta càng thấy rõ cảm xúc ấy.
Sau cuộc thi sáng tác Một nửa làm đầy thế giới do Nhà xuất bản Văn hóa Văn nghệ TP.HCM tổ chức năm 2019, với sự tài trợ chính của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư, tập truyện ngắn của các cây bút trẻ "Qua những miền yêu" vừa được xuất bản.
Ở tuổi 102, nhà văn hóa Hữu Ngọc vừa cho ra mắt bộ sách mới Cảo thơm lần giở gồm hai quyển với dung lượng gần một ngàn trang. Có thể nói, việc ra mắt sách ở cái tuổi xưa nay hiếm, quả là có một không hai, không chỉ ở Việt Nam mà có lẽ ngay cả trên thế giới.
Tháng 3 năm nay, tên tuổi Vương Hồng Sển trở lại với bạn đọc qua quyển di cảo Chuyện cũ ở Sốc Trăng.