Đào Tấn - Ảnh: internet
HƯƠNG GIANG THỦY HỮU SỞ KÝ Cộng thức Hương Giang thủy Vô nhân thức thủy hương Nguyệt lương thiên vị hiểu Giai minh (dánh) dữ quân thường Dịch thơ: CÓ ĐIỀU NHẮN GỬI DÒNG SÔNG HƯƠNG Nào ai biết hương nước Dù biết nước sông Hương Trăng sáng trời chờ sáng Pha chàng ấm trà ngon QUÁ KIM LONG DỊCH (Từ) Lãng tích niên niên thán vị thân Trùng quá Kim Long dịch Ức đồng du Thùy dương hà xứ hệ biên chu Hương giang thủy Y cựu hướng đông lưu Tịch mịch chuyển thiêm sầu Nhàn âu tùy lãng ánh Tự du du Tà dương tận xứ viễn sơn phù Tây phong lý Vô số lục hoa thu Dịch theo nguyên điệu: QUA TRẠM KIM LONG Bước chân phiêu bạt vẫn chưa thôi Trạm Kim Long lại đến Nhớ bạn đời Đâu cành liễu rũ buộc thuyền côi Nước sông Hương Vẫn mãi chảy về đông Lặng lẽ, sầu không vơi Chim âu nương ánh sóng Mãi mù khơi Bóng chiều thăm thẳm, núi xa vời Gió tây thổi Hoa nội nở đầy trời GIANG TRUNG VŨ Hương giang giang thượng phùng thu vũ Phà tản già đầu quá dã kiều Thử cảnh thở thời thùy hội đắc Thanh như song hạ thính ba tiêu Dịch thơ: GẶP MƯA GIỮA SÔNG Qua sông Hương gặp cơn mưa Cầu tre vội bước dù thưa che đầu Cảnh tình ai thấu cho nhau? Nghe như bên cửa tiếng tàu chuối khua (Nguyễn Khuê dịch) QUA HẢI VÂN Hải Vân quan thượng ngọ phong vi Tế vụ hàn yên bạn khách y Hô hấp vạn sơn thanh lãnh khí Trường an gia cận hải huề qui Dịch nghĩa: QUA ĐÈO HẢI VÂN Trên đỉnh Hải Vân gió trưa thoảng nhẹ Khói lạnh cùng sương vây như bận bịu áo kẻ qua đường Mặc sức mà hít thở không khí trong lành của muôn núi Trường an, nhà gần đó, cùng dắt nhau về KINH SƯ ĐẮC GIA THƯ Giang thủy tam thiên lý Gia thư thập ngũ hàng Hàng hàng vô biệt ngữ Chỉ đạo tảo hoàn hương Dịch thơ: Ở KINH ĐƯỢC THƯ NHÀ Sông nước ba ngàn dặm Thư nhà mươi lăm hàng Lời lời chẳng chi khác Chỉ nói sớm hoàn hương (Xuân Diệu dịch) VÔ ĐỀ Tiên đế ủy vi kim nhật dụng Cô thần hoàn tác cố sơn mưu Cân xa yểu điệu trường an cận Ưng trưởng hoa phong chúc miện lưu Dịch nghĩa: KHÔNG ĐỀ Vua trước có ý để hôm nay dùng vào việc nước Nhưng kẻ làm tôi này ngược lại cứ toan tính chuyện về quê Bọn quan trường hèn nhát lẩn quẩn mãi ở kinh đô Phải giải chiêu tập nhân tài mới mong thạnh trị ĐẮC TRIỆU HỒI KINH Tái đáo Hoàn Thành kim kỹ Xuân Giang sơn phong nguyệt cửu tương thân Thông thông hưu hướng ngọc kinh khứ Tàm quí nhân hổ đế cựu thần Dịch thơ: ĐƯỢC TRIỆU VỀ KINH Trở lại Hoàn Thành đã mấy xuân Núi sông trăng gió luống quen thân Giờ ta phải vội về kinh ngọc Thẹn lắm ai ơi, tiếng cựu thần. ĐẮC QUI, THƯ THỬ LƯU ĐƯƠNG BIỆT GIẢN Hồng nhẫn du quan tứ tải trì Tân thu nhất dạ phú hoài qui Ly đình khẳng khái tiên ưu tửu Hành lý trân tàng mật tuyến y Viên thất hoa tình thiên thước hỷ Tùng giang phong tế ức lư phì Cố hương tiên quá trường an lộ Mộng đối quân thiều nhập trúc phi Dịch thơ: ĐƯỢC VỀ HƯU VIẾT BÀI NÀY GỬI BẠN BÈ CÒN Ở LÀM QUAN Cách nhau đã bốn năm chầy Non hồng cảnh cũ còn ghi nỗi niềm Đầu thu hoa rụng nửa thềm Thơ hưu trằn trọc suốt đêm mỗi mình Thế là rày đã dứt tình Tiên ưu cạn chén, ly đình tiễn nhau Hành trang, biết xếp ngăn nào Áo khâu nhặt mũi mẹ bao mong chờ Hoa vườn lặng ngóng tin thơ Tiếng con chim khách líu lo bên hè Sóng Tùng thoảng ngọn gió quê Khiến ai nhớ gỏi cá mè, bỏ quan Nước non xa mấy dặm ngàn Hồi hương trước phải đi ngang kinh thành Quẩn quanh cái mộng thanh bình Về nơi cửa trúc mộng mình mình mang. (Vũ Ngọc Liễn và Thanh Hiện) (6/4-84) |
NGÔ MINHThơ tặng tuổi 50
NHẤT LÂMBên hồ Thanh Thủy
NGUYỄN QUANG HÀTổ Quốc
NGÔ MINHThơ đề trên phiến mai non
ĐỖ VĂN KHOÁILần đầu với Thanh Hóa
Võ Quê - Thanh Tú - Nhật Hoài Phương - Liễu Thượng Văn
NGUYỄN QUANG HÀ Bút ký thơ
Minh ơi Gửi hương hồn em tôi
TRẦN HOÀNG PHỐ ĐÔNG HÀ NGUYỄN THIỀN NGHI
Sinh năm 1973, quê Đại Lộc, Quảng Nam. Hiện là giảng viên Hán Nôm, Khoa văn ĐHSP Huế.Thơ anh giàu cảm xúc, luôn bộc lộ những ưu tư, khao khát. Tất cả những gì anh viết là nỗi niềm chân thực như chính bản thân anh.
Hoa hồng
Giếng làng
Quê ở Kim Long - Huế, hiện sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh.Có nhiều thơ in báo, in tuyển tập, in chung và 2 tập riêng: Lan miền Hương Ngự (năm 2000), Biếc xanh em (năm 2004).Đã là phái đẹp, hơn nữa lại đẹp trên xứ sở “mĩ miều” vốn nổi tiếng đất kinh kì (Kim Luông có gái mĩ miều/Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi) lại còn làm thơ như chính Nàng thơ tuỳ nhiên “hiển thị”.Thơ Võ Ngọc Lan hồn nhiên mà kín đáo, dung dị mà đằm thắm... Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ mới của chị.
LTS: Trong những ngày cuối tháng 6, đầu tháng 7. 2009. Trại sáng tác VHNT Quảng Điền 2009 đã được tổ chức bên bờ biển thôn Tân Mỹ ngập tràn nắng gió. Nhiều giai điệu đã được cất lên trong âm vang sóng vỗ. Nhiều dòng thơ đã được khơi nguồn cảm hứng từ trầm tích văn hóa Tam Giang. Sông Hương xin giới thiệu một số tác phẩm đó do các văn nghệ sĩ vừa mới chuyển về.
Tên thật là Nguyễn Minh Châu, sinh năm 1947 tại Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An. Hiện sống và viết tại Hà Nội.Là thương binh 2/4, từng đánh giặc và làm thơ ở các mặt trận Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ từ năm 1966 cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.Thơ Châu Nho xuất hiện lần đầu trên văn đàn cùng thời với Hữu Thỉnh, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật v.v...Sau một thời gian khá dài phải vừa chạy chữa vết thương ở chiến trường tái phát, vừa lo ngăn chặn “vết thương” ở thương trường có thể xảy ra, anh lại tự “cân bằng” mình với thơ.Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của anh viết về Huế và về đời thường người thương binh trong công cuộc đổi mới.
Sinh năm: 1949Quê quán: Lệ Thuỷ, Quảng BìnhTốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du (Khoá 1)Hội viên Hội Nhà văn Việt NamUỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam
LTS: Xưa nay, trong đời thường, vẫn có những người làm thơ một cách lặng lẽ rồi lại đem cất giấu đi cũng rất lặng lẽ. Về phương diện này, họ sống như những người mai danh ẩn tích. Hẳn bạn đọc còn nhớ, hơn chục năm trước, một cán bộ văn phòng Hội Nhà văn đã gây ngạc nhiên trên văn đàn với hiện tượng thơ Phùng Khắc Bắc từ hiệu ứng lặng lẽ ấy. Đó là khi qua đời, người ta đã phát hiện ra di cảo thơ của ông, rồi đem in, rồi được giải thưởng, rồi nó mang tên tuổi ông vào chễm chệ trong Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỷ XX.Chúng tôi có ý định dành cho bạn đọc một sự ngạc nhiên mới nhưng rất đáng tiếc là người thơ lặng lẽ ở đây vẫn muốn được “bình an” và chỉ đồng ý công bố tác phẩm với bút danh Trà Mi.Cái tên rất mới với Sông Hương và cũng sẽ rất lạ với bạn đọc, nhưng thơ Trà Mi đã có giọng riêng ở đẳng cấp chuyên nghiệp tự bao giờ. Xin mời bạn đọc thử xem có đúng vậy không?
VĨNH NGUYÊNTên thật: Nguyễn Quang VinhSinh ngày 3-11-1943Quê quán: Quảng BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt Nam
BỬU NAMINhiều khi tham thiền ta nhìn bóng ta trên váchChín con mắt linh hồn mở chín cõi xa xămLòng vọng tưởng ta thường mường tượng tới Gió xuân thì thổi rợn những đêm xanh
NGÔ MINHGió nồm Tặng Hoàng Vũ Thuật