Đào Tấn với sông Hương

10:05 19/10/2010
LTS: Đào Tấn (1845-1907) nhà thơ, nghệ sĩ tuồng xuất sắc. Ông đã ở Huế nhiều năm, viết nhiều vở tuồng có giá trị trong văn học sử Việt Nam. Cảnh sắc thiên nhiên và con người Huế cũng là nguồn cảm hứng của thơ, từ của ông. Chúng tôi xin giới thiệu một số thơ, từ của Đào Tấn viết về miền đất sông Hương qua bản dịch của nhà nghiên cứu tuồng Vũ Ngọc Liễn.

Đào Tấn - Ảnh: internet

HƯƠNG GIANG THỦY HỮU SỞ KÝ

Cộng thức Hương Giang thủy
Vô nhân thức thủy hương
Nguyệt lương thiên vị hiểu
Giai minh (dánh) dữ quân thường

Dịch thơ:

CÓ ĐIỀU NHẮN GỬI DÒNG SÔNG HƯƠNG

Nào ai biết hương nước
Dù biết nước sông Hương
Trăng sáng trời chờ sáng
Pha chàng ấm trà ngon


QUÁ KIM LONG DỊCH (Từ)

Lãng tích niên niên thán vị thân
Trùng quá Kim Long dịch
Ức đồng du
Thùy dương hà xứ hệ biên chu
Hương giang thủy
Y cựu hướng đông lưu
Tịch mịch chuyển thiêm sầu
Nhàn âu tùy lãng ánh
Tự du du
Tà dương tận xứ viễn sơn phù
Tây phong lý
Vô số lục hoa thu

Dịch theo nguyên điệu:

QUA TRẠM KIM LONG

Bước chân phiêu bạt vẫn chưa thôi
Trạm Kim Long lại đến
Nhớ bạn đời
Đâu cành liễu rũ buộc thuyền côi
Nước sông Hương
Vẫn mãi chảy về đông
Lặng lẽ, sầu không vơi
Chim âu nương ánh sóng
Mãi mù khơi
Bóng chiều thăm thẳm, núi xa vời
Gió tây thổi
Hoa nội nở đầy trời


GIANG TRUNG VŨ

Hương giang giang thượng phùng thu vũ
Phà tản già đầu quá dã kiều
Thử cảnh thở thời thùy hội đắc
Thanh như song hạ thính ba tiêu

Dịch thơ:

GẶP MƯA GIỮA SÔNG

Qua sông Hương gặp cơn mưa
Cầu tre vội bước dù thưa che đầu
Cảnh tình ai thấu cho nhau?
Nghe như bên cửa tiếng tàu chuối khua

                             (Nguyễn Khuê dịch)

QUA HẢI VÂN

Hải Vân quan thượng ngọ phong vi
Tế vụ hàn yên bạn khách y
Hô hấp vạn sơn thanh lãnh khí
Trường an gia cận hải huề qui

Dịch nghĩa:

QUA ĐÈO HẢI VÂN

Trên đỉnh Hải Vân gió trưa thoảng nhẹ
Khói lạnh cùng sương vây như bận bịu áo kẻ qua đường
Mặc sức mà hít thở không khí trong lành của muôn núi
Trường an, nhà gần đó, cùng dắt nhau về


KINH SƯ ĐẮC GIA THƯ

Giang thủy tam thiên lý
Gia thư thập ngũ hàng
Hàng hàng vô biệt ngữ
Chỉ đạo tảo hoàn hương

Dịch thơ:

Ở KINH ĐƯỢC THƯ NHÀ

Sông nước ba ngàn dặm
Thư nhà mươi lăm hàng
Lời lời chẳng chi khác
Chỉ nói sớm hoàn hương

            (Xuân Diệu dịch)

VÔ ĐỀ

Tiên đế ủy vi kim nhật dụng
Cô thần hoàn tác cố sơn mưu
Cân xa yểu điệu trường an cận
Ưng trưởng hoa phong chúc miện lưu

Dịch nghĩa:

KHÔNG ĐỀ

Vua trước có ý để hôm nay dùng vào việc nước
Nhưng kẻ làm tôi này ngược lại cứ toan tính chuyện về quê
Bọn quan trường hèn nhát lẩn quẩn mãi ở kinh đô
Phải giải chiêu tập nhân tài mới mong thạnh trị


ĐẮC TRIỆU HỒI KINH

Tái đáo Hoàn Thành kim kỹ Xuân
Giang sơn phong nguyệt cửu tương thân
Thông thông hưu hướng ngọc kinh khứ
Tàm quí nhân hổ đế cựu thần

Dịch thơ:

ĐƯỢC TRIỆU VỀ KINH

Trở lại Hoàn Thành đã mấy xuân
Núi sông trăng gió luống quen thân
Giờ ta phải vội về kinh ngọc
Thẹn lắm ai ơi, tiếng cựu thần.


ĐẮC QUI, THƯ THỬ LƯU ĐƯƠNG BIỆT GIẢN

Hồng nhẫn du quan tứ tải trì
Tân thu nhất dạ phú hoài qui
Ly đình khẳng khái tiên ưu tửu
Hành lý trân tàng mật tuyến y
Viên thất hoa tình thiên thước hỷ
Tùng giang phong tế ức lư phì
Cố hương tiên quá trường an lộ
Mộng đối quân thiều nhập trúc phi

Dịch thơ:

ĐƯỢC VỀ HƯU VIẾT BÀI NÀY
GỬI BẠN BÈ CÒN Ở LÀM QUAN

Cách nhau đã bốn năm chầy
Non hồng cảnh cũ còn ghi nỗi niềm
Đầu thu hoa rụng nửa thềm
Thơ hưu trằn trọc suốt đêm mỗi mình
Thế là rày đã dứt tình
Tiên ưu cạn chén, ly đình tiễn nhau
Hành trang, biết xếp ngăn nào
Áo khâu nhặt mũi mẹ bao mong chờ
Hoa vườn lặng ngóng tin thơ
Tiếng con chim khách líu lo bên hè
Sóng Tùng thoảng ngọn gió quê
Khiến ai nhớ gỏi cá mè, bỏ quan
Nước non xa mấy dặm ngàn
Hồi hương trước phải đi ngang kinh thành

Quẩn quanh cái mộng thanh bình
Về nơi cửa trúc mộng mình mình mang.

            (Vũ Ngọc Liễn và Thanh Hiện)


(6/4-84)




Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGÔ MINHThơ tặng tuổi 50

  • NHẤT LÂMBên hồ Thanh Thủy

  • NGUYỄN QUANG HÀTổ Quốc

  • NGÔ MINHThơ đề trên phiến mai non

  • ĐỖ VĂN KHOÁILần đầu với Thanh Hóa

  • Võ Quê - Thanh Tú - Nhật Hoài Phương - Liễu Thượng Văn

  • NGUYỄN QUANG HÀ                   Bút ký thơ

  • Minh ơi            Gửi hương hồn em tôi

  • TRẦN HOÀNG PHỐ     ĐÔNG HÀ          NGUYỄN THIỀN NGHI

  • Sinh năm 1973, quê Đại Lộc, Quảng Nam. Hiện là giảng viên Hán Nôm, Khoa văn ĐHSP Huế.Thơ anh giàu cảm xúc, luôn bộc lộ những ưu tư, khao khát. Tất cả những gì anh viết là nỗi niềm chân thực như chính bản thân anh.

  • Quê ở Kim Long - Huế, hiện sinh sống tại thành phố Hồ Chí  Minh.Có nhiều thơ in báo, in tuyển tập, in chung và 2 tập riêng: Lan miền Hương Ngự (năm 2000), Biếc xanh em (năm 2004).Đã là phái đẹp, hơn nữa lại đẹp trên xứ sở “mĩ miều” vốn nổi tiếng đất kinh kì (Kim Luông có gái mĩ miều/Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi) lại còn làm thơ như chính Nàng thơ tuỳ nhiên “hiển thị”.Thơ Võ Ngọc Lan hồn nhiên mà kín đáo, dung dị mà đằm thắm... Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ mới của chị.

  • LTS: Trong những ngày cuối tháng 6, đầu tháng 7. 2009. Trại sáng tác VHNT Quảng Điền 2009 đã được tổ chức bên bờ biển thôn Tân Mỹ ngập tràn nắng gió. Nhiều giai điệu đã được cất lên trong âm vang sóng vỗ. Nhiều dòng thơ đã được khơi nguồn cảm hứng từ trầm tích văn hóa Tam Giang. Sông Hương xin giới thiệu một số tác phẩm đó do các văn nghệ sĩ vừa mới chuyển về.

  • Tên thật là Nguyễn Minh Châu, sinh năm 1947 tại Diễn Thành, Diễn Châu, Nghệ An. Hiện sống và viết tại Hà Nội.Là thương binh 2/4, từng đánh giặc và làm thơ ở các mặt trận Trị Thiên, Tây Nguyên, Nam Bộ từ năm 1966 cho đến ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.Thơ Châu Nho xuất hiện lần đầu trên văn đàn cùng thời với Hữu Thỉnh, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật v.v...Sau một thời gian khá dài phải vừa chạy chữa vết thương ở chiến trường tái phát, vừa lo ngăn chặn “vết thương” ở thương trường có thể xảy ra, anh lại tự “cân bằng” mình với thơ.Sông Hương trân trọng giới thiệu chùm thơ của anh viết về Huế và về đời thường người thương binh trong công cuộc đổi mới.

  • Sinh năm: 1949Quê quán: Lệ Thuỷ, Quảng BìnhTốt nghiệp Trường Viết văn Nguyễn Du (Khoá 1)Hội viên Hội Nhà văn Việt NamUỷ viên Ban Chấp hành Hội Nhà Văn Việt Nam

  • LTS: Xưa nay, trong đời thường, vẫn có những người làm thơ một cách lặng lẽ rồi lại đem cất giấu đi cũng rất lặng lẽ. Về phương diện này, họ sống như những người mai danh ẩn tích. Hẳn bạn đọc còn nhớ, hơn chục năm trước, một cán bộ văn phòng Hội Nhà văn đã gây ngạc nhiên trên văn đàn với hiện tượng thơ Phùng Khắc Bắc từ hiệu ứng lặng lẽ ấy. Đó là khi qua đời, người ta đã phát hiện ra di cảo thơ của ông, rồi đem in, rồi được giải thưởng, rồi nó mang tên tuổi ông vào chễm chệ trong Từ điển tác gia văn học Việt Nam thế kỷ XX.Chúng tôi có ý định dành cho bạn đọc một sự ngạc nhiên mới nhưng rất đáng tiếc là người thơ lặng lẽ ở đây vẫn muốn được “bình an” và chỉ đồng ý công bố tác phẩm với bút danh Trà Mi.Cái tên rất mới với Sông Hương và cũng sẽ rất lạ với bạn đọc, nhưng thơ Trà Mi đã có giọng riêng ở đẳng cấp chuyên nghiệp tự bao giờ. Xin mời bạn đọc thử xem có đúng vậy không?

  • VĨNH NGUYÊNTên thật: Nguyễn Quang VinhSinh ngày 3-11-1943Quê quán: Quảng BìnhHội viên Hội Nhà văn Việt Nam

  • BỬU NAMINhiều khi tham thiền ta nhìn bóng ta trên váchChín con mắt linh hồn mở chín cõi xa xămLòng vọng tưởng ta thường mường tượng tới Gió xuân thì thổi rợn những đêm xanh

  • NGÔ MINHGió nồm                Tặng Hoàng Vũ Thuật