TRẦN THÙY MAI
(Đọc Đi tìm ngọn núi thiêng của Nguyễn Văn Dũng, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2012)
Ngày trước nhà văn Nguyễn Tuân đã có lần ước rằng sau khi ông chết, xin đem bộ da của ông làm chiếc va li để ông có thể tiếp tục du hành khắp đó đây. Những chuyến đi xem ra có sức hút mạnh mẽ vô cùng với những tâm hồn lãng tử. Có lẽ, điều ấy xuất phát từ cái khát khao muôn thuở của con người từ thời nguyên thủy, khát khao muốn đi tìm những vùng đất mới để mở rộng biên giới của cuộc sống.
Trong vòng hơn mười năm nay, nhà văn Nguyễn Văn Dũng đã nổi tiếng là một nhà du hành. Năm 2006, với cuốn du ký “Linh sơn mây trắng”, anh đã kể với chúng ta thật nhiều chuyến đi thú vị. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường khi giới thiệu cuốn sách này đã so sánh bút lực của tác giả với tinh thần dũng cảm và cao nhã của hoa anh đào. Đấy là vì Nguyễn Văn Dũng không phải một người đi du lịch khơi khơi. Anh đi, nhìn, chiêm nghiệm với cái tâm rộng mở và đầy sức mạnh của một môn đồ võ sĩ đạo.
![]() |
Nhà văn Nguyễn Văn Dũng phát biểu cảm nghĩ tại buổi giới thiệu tác phẩm “Đi tìm ngọn núi thiêng” |
Đi tìm ngọn núi thiêng là cuốn sách thứ hai anh viết về những chuyến ngao du. Đọc mới thấy đáng nể, vì té ra nhà du hành này không bỏ sót một châu lục nào không đặt chân đến. Chuyện trong năm châu bốn biển từ những chuyến đi này càng lúc càng chất đầy trong tâm trí của anh, rồi qua ngòi bút và trang giấy anh lại chia sẻ với mọi người. Cho nên ta mới có được cái thú ngồi nhà mà vẫn nhìn thấy bao điều hay chuyện lạ ở những nơi anh phải gieo neo tìm đến.
Nói là gieo neo, vì không phải chuyến đi nào cũng lên xe xuống ngựa, cũng thông qua phương tiện văn minh tân tiến. Có chuyến anh đi thăm những đền đài tráng lệ như cung điện Buckingham lạnh lẽo (Anh quốc) hay lâu đài Konopiste đầy bí mật (Czech). Nhưng cũng có chuyến đi gian khổ (Đường về Tuyết Sơn) thậm chí suýt toi mạng (Đi tìm ngọn núi thiêng). Anh kể với chúng ta về phiên chợ ở Manaus, nơi mà quý bà Việt Nam nếu được thấy một lần có lẽ sẽ vô cùng kinh ngạc: Cả chợ chỉ có đàn ông, không có một phụ nữ nào. “…Ở Brasil, người chồng là trụ cột của gia đình: xông pha, kiếm tiền, quản lý mọi thu nhập; còn người vợ, thì chỉ chăm chút việc nhà, nuôi dạy con cái, chờ chồng, và làm đẹp”. Không có anh làm sao ta biết được ngay giữa công viên Parc de l’Artillerie ở Toronto (Canada) có bức tượng bán thân của Nguyễn Trãi. “…Đó là bức tượng bán thân đặt trên một bệ đá cao, bên cạnh vô số bức tượng của các danh nhân thế giới. Tôi sững sờ và xúc động tưởng như lâu ngày gặp lại người thân. Tự hào thay khi một phần lịch sử dân tộc mình đang có mặt nơi vùng đất xa xôi lạnh giá này. Nhưng sao khuôn mặt cụ có vẻ cau có và đau đời thế!” Nhiều khi, tác giả cố làm dịu bớt đi những xót xa của “những điều trông thấy” bằng chút dí dỏm hài hước: “…Tại Hiếu lăng của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương có đến 38 cung phi bị tuẫn táng, còn Trường lăng của con trai ông thì ít hơn, chỉ 16 thôi. Không biết dưới âm phủ, các ngài có bị tòa án quốc tế cáo buộc tội ác chống lại loài người!”
Cái phong thái võ sĩ đạo, hay cũng có thể là phong thái của người thấm nhuần đạo Phật bộc lộ ra ở chỗ: Dù trong chốn văn minh phồn hoa hay nơi núi cao vực sâu hoang dã, tác giả cũng đều giữ cho mình một tâm hồn thanh thản, thư thái, luôn mở cửa tâm thức để đón chờ những điều mới lạ. Đôi khi trọng tâm của thiên du ký không nói về những chuyện ly kỳ nơi đất khách quê người, mà lại chính là những rung cảm bùi ngùi khi tìm lại một linh hồn xưa nơi thành phố lạ. Như là lúc gặp lại thủ bút của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong một đêm thành phố Québec, những dòng chữ chưa phai đề tặng sinh nhật người con gái áo vàng, một mối tình đã từng là nguồn cảm hứng cho ca khúc Hoa vàng mấy độ…
Đọc những dòng du ký của anh tôi chợt nhớ đến câu nói của Jawaharial Nehru: “Chúng ta sống trong một thế giới tuyệt vời, đầy vẻ đẹp, đầy sự thu hút và những điều bất ngờ. Chỉ cần ta biết mở to đôi mắt, những cuộc phiêu lưu sẽ mở ra bất tận.” Nhà du hành, nếu không từ những chất liệu của ngoại cảnh mà đưa ra ý tưởng của chính mình, sẽ chẳng khác nào con chim không có cánh. Đi tìm ngọn núi thiêng ghi lại đường bay của những ý tưởng có cánh, xuất phát từ niềm đam mê khám phá thế giới và khả năng soi chiếu ngoại vật để tìm lại chính tâm hồn mình. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả sắp đặt cho cuốn sách khởi đầu với một tuần tu tập trên Tuyết Sơn (Népal) và đóng lại với chuyến hành hương lên đỉnh núi Kailash (Tây Tạng). Là một người phương Đông, anh luôn xem những chuyến đi lớn nhất là những hành trình đi ngược vào thế giới tâm linh sâu thẳm. Nếu biển là hình ảnh của sự ra đi, thì núi gần với các thiền giả vì đấy là hình tượng của sự quay về.
“Một điểm đến không chỉ là một địa điểm. Đấy là một cách nhìn khác đi về sự vật” (Henry Miller). Khi ta thấy thế giới dường như rộng hơn, sâu hơn, khi muôn màu muôn vẻ của cuộc đời hiện ra trên từng đoạn đường, rất khác nhau nhưng vẫn không ngoài quy luật chung của sự sống thiêng liêng - thì đấy cũng là lúc ta đã chứng ngộ một điều gì đấy rất kỳ diệu. Phải chăng có thể nói đấy là chân lý của một Đạo - Đạo của những người thích lãng du?
Huế, 25 tháng 7/2012
T.T.M
(SH284/10-12)
BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)
PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.
HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.
BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.
NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)
LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.
THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.
HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...
BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.
NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.
HỒ THẾ HÀ Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.
TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.
TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.
HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.
NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)
LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.
HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)
VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)