Dạo chơi trong giới phê bình nghệ thuật

15:40 27/11/2009
NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

Nhà văn Nguyễn Đình Chính - Ảnh: tintuc.xalo.vn

I/ Lời nói đầu

Có lẽ chưa bao giờ các tác phẩm nghệ thuật lại lạm phát dữ dội như bây giờ. Hàng ngàn cuốn tiểu thuyết và các tập thơ. Hàng trăm bộ phim truyền hình và các vở sân khấu. Và gấp mười lần, không! gấp vài chục lần con số trăm đó là các tác phẩm hội họa, điêu khắc. Còn các ca khúc thì sao? Nhất là các băng đĩa ca khúc trữ tình xuất xưởng liên tục nhiều không thể đếm xuể. Chưa bàn đến chất lượng hay dở các tác phẩm nghệ thuật đó và tác động của nó đến đời sống xã hội. Nếu coi những tác phẩm đó cũng là các hàng hóa (như cách nói hiện đại bây giờ) thì thị trường hàng hóa nghệ thuật thật là náo nhiệt, tưng bừng. Và phản ứng của nhân dân hay là các thượng đế (lại nói theo cách nói hiện đại bây giờ) với các món hàng này cũng thật là tưng bừng, náo nhiệt.

Nhưng... trong cảnh thế sôi sục khác thường này thì giới phê bình nghệ thuật lại thờ ơ và im lặng một cách khó hiểu.

Đúng lí ra thì đây là thời cơ "ngàn năm có một" để họ (tức giới phê bình nghệ thuật) tung hoành ngang dọc thi thố tài năng, bản lãnh lập trường, quan điểm để chiếm lĩnh thị trường để chỉ ra cái đúng, cái sai, cái hay, cái đẹp, cái giá trị đích thực và cái giả mạo để giúp người nghệ sĩ và đông đảo quần chúng nhân dân (tức là các thượng đế) mỗi ngày lại biết làm ra các món ăn tinh thần hay hơn, đẹp hơn, tuyệt vời hơn và cũng mỗi ngày biết cách lựa chọn, thưởng thức các món ăn tinh thần nghệ thuật bổ ích, tuyệt hảo hơn.

Ôi! phê bình nghệ thuật - cần lắm thay và chưa bao giờ cả nghệ thuật lẫn nhân dân lại cần các nhà phê bình nghệ thuật đến như bây giờ.

Vậy mà, xin hỏi duyên cớ gì mà các nhà phê bình nghệ thuật lại thờ ơ, im hơi lặng tiếng đến như vậy.

Xin gửi tới giới phê bình nghệ thuật câu hỏi trên. Đó là câu hỏi ân tình và cũng là mong mỏi nguyện vọng của biết bao người. Quả bóng này xin thân ái đặt ở chấm phạt đền và xin mời các nhà phê bình tiến lên ghi bàn. Xin mời!

II/ Bốn nguyên do khiến các nhà phê bình nghệ thuật treo bảng "Miễn chiến bài"

Tôi có gặp một nhà phê bình nghệ thuật đa năng khá có tên tuổi. Gọi là đa năng vì lâu nay ông phê bình tất cả các bộ môn nghệ thuật văn xuôi, thi ca, sân khấu, điện ảnh, mỹ thuật, âm nhạc v.v... nghĩa là nghệ thuật có bao nhiêu hội thì ông "phê bình" tất tật. Gọi là có tên tuổi vì ông có thâm niên trong giới và có thể liệt ông vào ngôi "ông kễnh" trong "môi trường" nghệ thuật. Tôi có chân tình chuuyển tới ông câu hỏi đó trong một cuộc "phỏng vấn ở quán chả cá" thì ông cũng chân tình và thẳng thắn trả lời tôi như sau:

- Thưa nhà báo, theo thiển ý của cá nhân tôi, thì có 4 nguyên nhân sau:

Sợ hãi, Chán nản, Bối rối và Thích chơi đồ cổ.

Tôi đề nghị ông, là người trong nghề (chui trong chăn mới biết chăn có rận) xin ông phân tích, cắt nghĩa 4 nguyên nhân đó cho mọi người cùng nghe. Ông có vẻ hào hứng lắm, nhưng vẫn hơi lo lo. Tôi hỏi vì sao ông lo. Ông bảo: ông sợ ai đó trong giới phê bình nó thù. Cái anh sáng tác thù đã dai rồi. Nhưng cái anh phê bình họ còn thù dai hơn. Vì cái thù đó ngoài cảm tính còn có lý luận. Nhưng rồi sau khi suy tính ông bèn thỏa mãn yêu cầu của tôi. Ông bảo: Tôi cứ nói thẳng ra, trong anh em trong giới phê bình ai có giận, có thù, thì tôi xin chịu. Mong rằng anh em hiểu cho tôi chân thành đang làm bản tự kiểm điểm bản thân tôi mà thôi. (chỉ riêng bản thân ông mà thôi). Tuy nhiên ông đề nghị tôi dấu tên ông. Và nếu buộc có phải nhắc đến thì xin cứ lấy một cái tên tắt, có tính kí hiệu nào đó, thí dụ như F1 F2 chẳng hạn. Ông không muốn động đến tên họ thật của ông vì sợ nhỡ có chuyện gì cãi vã đấu lý nhau gay gắt, dai dẳng mất mặt trên báo chí thì, vợ con ông lại xấu hổ mang tiếng với hàng xóm ở khu tập thể mà gia đình ông đang sống.

Và sau đây xin ghi chép rất gọn về những phân tính, cắt nghĩa của ông F1 F2 về 4 nguyên nhân: Sợ hãi, Chán nản, Bối rối và Thích chơi đồ cổ.

1. Sợ hãi: Phê bình là có khen có chê. Khen thì chẳng nói làm gì, nhưng một khi đã chê thì thường chuốc thù chuốc oán vào người. Đã làm người ai mà chẳng sợ hãi sự thù oán. Cái ông phê bình viết văng mạng, chê bôi chửi bới lung tung thì có bị thù bị oán cũng đáng lắm. Bây giờ cũng có nhà phê bình vẫn thích chơi võ Đốt đền trong nghệ thuật. Thích làm người nổi danh như gã A Rốt Xi Tát. Tuy nhiên với những người phê bình tử tế, công tâm thì họ rất ngại sự oán thù. Người tử tế đều như thế cả. Cái sự oán thù bây giờ nó ghê lắm. Nó dắt dây hàng dọc. Ngày xưa, chê bôi một tác phẩm nghệ thuật thì chỉ chuốc lấy cái sự thù oán của một cái ông nghệ sĩ "sinh đẻ" ra tác phẩm nghệ thuật đó. Còn bây giờ ư? Đâu chỉ có một mình cái ông nghệ sĩ đó. Mà đằng sau ông ta còn có cả một hệ thống cơ quan trả tiền, bảo lãnh và phát hành tác phẩm nghệ thuật. Thí dụ nhỡn tiền, gần đây có vài ba bài báo liên tiếp phê bình phim truyền hình. Lập tức có những cú phôn và lời nhắn miệng phản ứng linh hoạt tức thì của một cái hãng phim truyền hình nào đó gửi tới tòa soạn: kỳ lạ thế. Đáng lí phải viết bài trao đổi, tranh luận thì lại phôn, lại nhắn miệng v.v... Cái sự phản ứng linh hoạt không bình thường này reo rắc một không khí căng thẳng không đáng có, gây lên tâm lý sợ hãi một sự va chạm giữa hai cơ quan: bản báo và hãng phim. Và sự va chạm giữa người viết báo và hãng phim. Kết quả là: ông biên tập gặp riêng ông phóng viên viết bài: "Thôi nhé. Hạ đô. (đô đây là cái gì?) Tôi đặt ông viết cho 1 bài nữa về phim truyền hình nhưng lần này: Khen nhiều nhé. Bớt phê đi. Hai ngàn chữ.OK?" Ông biên tập nói vậy. Ông phóng viên gân cổ lên định cãi, định lý sự thì nhận luôn 1 câu: Cậu vớ vẩn. Tờ báo của chúng tớ bao năm nay luôn đứng đắn, nghiêm túc, chưa bao giờ vướng vào những chuyện rắc rối, xì căng đan. Bây giờ người ta chỉ cần 2 chữ bình an và chúa sợ sự rắc rối. Cậu là nhà báo kiêm phê bình nghệ thuật mà không biết sợ ạ. Hãy học tập dần sự sợ hãi đi. Vì sự sợ hãi nó dẫn đến sự an toàn trước tiên cho chính bản thân cậu và sau đó là môi trường xung quanh cậu.

Ngẫm đi ngẫm lại, lời của ông biên tập rất chí lý. Một khi biết sợ hãi thì các bài viết của anh mới đắc dụng. Mà đã sợ hãi thì làm sao có thể phê bình nghệ thuật được nữa cơ chứ. Tóm lại, bi kịch rơi vào đầu nhà phê bình nghệ thuật trước tiên. Một cái chép miệng - thế là không viết lách gì nữa. Đi câu, đi hát ca ra ô kê còn bổ ích, thích thú hơn viết phê bình nghệ thuật. Nói cho oai cho sĩ diện chứ thật ra, sự sợ hãi đã làm nhà phê bình chùm... bút. Vì mình mà gây ra sự căng thẳng, oán thù giữa hai cơ quan thì... cũng phải biết sợ chứ. Thế là... "Miễn chiến bài".

2. Chán nản. Cái chản nản thứ nhất là nhuận bút trả cho các bài phê bình nghệ thuật quá rẻ mạt, ít ỏi. Và hình như trong thang nhuận bút thì phê bình nghệ thuật đứng sau sáng tác. Ở nước ta hiện nay đã có văn nghệ sĩ sáng tác: viết kịch bản phim,vẽ tranh v..v... sống bằng ngòi bút (bút sắt, bút lông) của mình. Nhưng chưa có nhà phê bình nào sống bằng ngòi bút phê bình của mình. Trừ những bậc đại tài sống quên đi tiền bạc, còn phần đông chúng sinh, nhất là văn nghệ sĩ, vẽ tranh, viết văn, làm nhạc, viết phê bình mà không ra tiền hoặc chỉ ra ri rỉ cò con thì sau cơn cảm hứng lập tức dẫn đến sự chán nản khủng khiếp. Chán đến mức muốn bỏ qúach cái lao động nghệ thuật đó mà đi mở quán cà phê, mở cửa hiệu rửa xe, bán máy vi tính v.v...

Nói ra chẳng sợ xấu hổ,, vì cái sự hoàn trả tiền bạc của xã hội đối với nghề phê bình là quá rẻ rúng nên nhiều nhà phê bình nghệ thuật chán nản chẳng thiết phê bình nghệ thuật nữa. Cái chán nản thứ hai còn trầm trọng hơn. Ây là những áp lực từ đâu đó treo lơ lửng trên đầu nhà phê bình, lặng lẽ bắt họ phải "phê bình" theo một sự gợi ý tế nhị nào đó, chứ không còn được phê bình theo ý kiến, suy nghĩ của riêng nhà phê bình. Nhất là đối với những tác phẩm có vấn đề. Một tờ báo nào đó chủ trương triệu tập các nhà phê bình để chủ ý "tâng lên mây" hoặc "dìm xuống bùn" một tác phẩm nghệ thuật nào đó. Thế là muốn cho ý kiến của mình được in trên mặt báo thì nhà phê bình chỉ còn cách lý luận phát biểu theo sự chỉ đạo ngầm hoặc công khai của tờ báo đó. Một cách phê bình như thế người ta gọi là "đánh đòn hội chợ" hoặc là "báo công mừng công đại hội". Phê bình như vâỵ là thiếu dân chủ, là áp đặt. Và kết quả đau đớn nhất là thủ tiêu phê bình. Đây là cách tổ chức công ăn việc làm cho các nhà phê bình đã cũ xưa như trái đất, đã quá lạc hậu. Tuy vậy hiện nay vẫn còn và có triêụ chứng hồi sinh lại. Cần phải chấn chỉnh cái cách phê bình này. Nếu không, trước tiên nó sẽ không nhận đưọc sự hưởng ứng của các nhà phê bình nghệ thuật.Tất nhiên không loại trừ những nhà phê bình cơ hội, xu thời. Còn nói chung, đại đa số cây viết phê bình nghệ thuật tài năng, sắc sảo luôn có chính kiến riêng sẽ quay lưng lại và... miễn chiến bài.

3. Bối rối: Đây là nguyên nhân rất lớn khiến các nhà phê bình nghệ thuật bị liệt bút. Họ bối rối vì không biết phê bình nghệ thuật như thế nào nữa trong bối cảnh sáng tác nghệ thuật khá tự do, phóng khoáng hiện nay. Sân bãi nghệ thuật nước ta hiện nay thực chất khá rộng rãi và ồn ã. Trừ 3 trường phái sáng tác dâm ô, chống chủ nghĩa xã hội, cổ xúy chiến tranh chống lại hòa bình, còn các trường phái khác thì tha hồ vùng vẫy. Chỉ nói riêng trong hội họa thôi cũng thấy ngoài trường phái tả thực, hiện nay cứ vào một triển lảm tranh toàn quốc là thấy góp mặt đủ các loại trường phái hội họa đã tồn tại trên thế giới. Thôi thì đủ cả ấn tượng,dã thú, braque, lập thể, vị lai, biểu hiện, trừu trượng, đa đa, siêu thực, hồn nhiên v.v... và v.v... Các nhà phê bình nghệ thuật của ta được đào tạo tại Liên Xô củ, một số nước Đông Âu cũ, và ở nước ta - chủ yếu họ được trang bị một thứ chìa khóa chỉ mở được cửa của ngôi đền nghệ thuật hiện thực. Khi học, chỉ được dậy dỗ nhiều về cái đúng cái sai cái tính tư tưởng và bố cục hài hòa, mầu sắc nhuần nhuyễn của một họa phẩm hiện thực, tả thực. Vì vậy khi phải đối đầu với những họa phẩm nghệ thuật siêu thực, mô đéc v.v... họ vẽ cứ loạn cả lên rối tinh rối mù, màu sắc be bét hỗn độn thì thú thực là nhà phê bình mỹ thuật cũng hơi bối rối. Nói nôm na là hơi cuống. Mà đã cuống rồi thì còn phê bình, lý luận gì gì nữa.

Lại quay sang âm nhạc nói một chút, gần đây có nhà phê bình âm nhạc bối rối lắm, mấy lần định viết bài phê bình các bài ca trữ tình đang lạm phát trên truyền hình là loại nhạc sến, còn ướt và rẻ hơn nhạc vàng. Nhưng rồi không thể viết được vì cứ nghĩ có lẽ cái thể loại ca khúc trữ tình sướt mướt rẻ tiền này còn có 1 giá trị gì cao cả, cao siêu còn dấu trong bí mật nhưng rất bổ ích cho thanh niên nên mới được các cơ quan truyền hình liên tục phát trên sóng. Nhà phê bình âm nhạc bối rối đâm ra nghi ngờ ngay chính cái sự hiểu biết,cảm thụ của mình. Có lẽ ta già rồi chăng. Ta lạc hậu quá rồi chăng. Ông ta tự hỏi như vậy với tâm trạng bối rối liên tục. Và thế là khi được mời đi làm giám khảo cho 1 liên hoan ca khúc trữ tình mùa thu gì đó, ông bèn cáo ốm xin rút. Bối rối đến mất cả lòng tin vào chính mình thì còn giám khảo gì nữa, nói gì định viết phê bình âm nhạc.

Tóm gọn lại, không chỉ ở hai ngành hội họa và âm nhạc, mà ngành văn thơ, múa, điện ảnh, kịch nghệ cũng có tình trạng các nhà phê bình bị bối rối khi định hành nghề phê bình nghệ thuật. Sự bối rối này khiến các nhà phê bình thực sự bị liệt bút. Và cũng vì thế mà họ đã treo biển "miễn chiến bài" khi nghệ thuật và công chúng đang khao khát mong họ xỏ găng đi giầy xông ra sân bãi. Tất nhiên không tính đến hiện nay có một số nhà phê bình nghệ thuật càng cuống thì lại càng nói vung lên, viết vung lên cứ y như một cao thủ võ lâm bị tẩu hỏa nhập ma đang khua chân múa tay lảm nhảm những gì gì đó mà có khi chính họ cũng chẳng hiểu họ đang nói gì, viết gì.

4. Thích chơi đồ cổ: Đây là một cái mốt hành nghề phê bình khá phổ biến của một số nhà phê bình có tên tuổi và ở lứa tuổi từ 50 đến 70. (không có trong giới phê bình nghệ thuật trẻ tuổi) Các nhà phê bình này họ không chơi chum vại, bình gốm, tượng đồng đen, bát chiết yêu v.v...mà họ chơi các sự kiện văn học nghệ thuật đã lỗi thời và chơi tên tuổi tác phẩm các văn nghệ sĩ nổi danh đã từ lâu hóa người thiên cổ. Họ gọi tất cả các sự kiện văn nghệ và các cố văn nghệ sĩ này là đồ cổ. Và họ tuyên bố xanh dờn "Họ đang chơi đồ cổ". Khi được hỏi nguyên nhân vì sao họ lại chỉ thích chơi đồ cổ thì họ thản nhiên trả lời: Vì cái tình hình văn nghệ bây giờ quá chợ trời, vì các tác phẩm văn nghệ bây giờ quá thấp kém, xoàng xĩnh không đáng cho họ động bút. Vì thế thà chơi đồ cổ mà lại thích hơn, khoái hơn. Đánh giá văn nghệ và tác phẩm thế nào là quyền tự do của mỗi một người. Muốn chơi đồ cổ thì cũng là quyền của mỗi nhà phê bình. Nhưng nếu để mắt tới thái độ chơi, cách chơi của họ thì thấy có cái gì đó không ổn lắm. Đánh giá, nhận xét về một nghệ sĩ lớn,về một tác phẩm siêu việt thường rất phức tạp bởi vì bản thân người nghệ sĩ lớn đó và tác phẩm siêu việt đó cũng rất phức tạp và đa chiều rồi. Thường thường những phê bình nghệ thuật về họ (con người và tác phẩm lớn đó) chỉ có tính tương đối đúng. Và phần lớn nghiêng về xu thế cảm quan của thời đại xã hội đương thời hơn là nghiêng về chân lý của nghệ thuật chân, thiện, mỹ v.v... Việc các nhà phê bình... ông kễnh chơi đồ cổ là rất cần thiết cho phê bình văn học nghệ thuật nước nhà hiện nay. Chúng ta không thể chối bỏ, giả vờ phớt lờ đi có một giai đoạn đã đánh giá nhận xét các giá trị nghệ thuật, các tác phẩm nghệ thuật của quá khứ lịch sử văn học nghệ thuật của nước ta còn phiến diện, khiếm sót và thậm chí lệch lạc, bất công. Tuy nhiên nếu chỉ dựng lại các thứ đồ cổ đó mà phủ nhận cả một nền văn học nghệ thuật đang ào ạt quẫy mạnh hiện nay thì cũng phải xem cái ý đồ người đang chơi đồ cổ này có ý đồ gì. Họ thành tâm, họ giận dỗi, họ khinh miệt, họ uyên bác, họ tỉnh táo hay họ đang định lén chơi trò chính trị trong nghệ thuật. Hay thực chất họ chỉ đang chơi trò bông phèng. Hãy cứ lấy một cái chết của văn hào Nguyễn Tuân mà xem. Có tới hàng trăm bài viết về ông, nhưng xem ra chỉ có dăm, bảy bài là viết về giá trị văn học của ông, còn phần lớn đều vẽ một chân dung Nguyễn Tuân là tay bợm nhậu, sành ăn ăn khôn nhất xứ này. Xin nói thực, chơi đồ cổ mà chơi như vậy thì có mà giết người ta một lần nữa. Chơi như thế phí thời giờ, tổn âm đức, lại làm rối cho con cháu lớp sau đọc Nguyễn Thân. Tốt hơn hết là nên đừng chơi đồ cổ nữa mà nên quay lại, xắn tay áo xông vào sát cánh vui chơi cùng với anh em văn nghệ sĩ đang sống cùng thời với mình. Vấn đề ở đây là: Chơi đồ cổ trong văn nghệ ư. OK! Nhưng nên nhớ chơi gì cũng phải có nghề đâý. Nhất là đồ cổ. Ở đời đã có ối kẻ vì chơi đồ cổ mà phá sản, mà đi tù. Ai dám cam đoan không có những nhà phê bình nghệ thuật chơi đồ cổ nghệ thuật mà lại không bị thân bại danh liệt.

N.Đ.C
(125/07-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VĂN CÔNG HÙNGKính thưa quý vị, tôi phải xin phép nói ngay là những phát biểu của tôi vô cùng cảm tính và chả có một hệ thống gì hết, trong khi trước mặt tôi đây đều là những người lừng danh về cảm nhận, nhận xét, đúc kết, rất giỏi tìm ra những vấn đề, những quy luật của thơ.

  • TRẦN HOÀI ANH1. Có thể nói yêu cầu đổi mới của các thể loại văn học là một yêu cầu tất yếu trong đời sống văn học. Tính tất yếu nầy luôn đặt cho văn học một hành trình cách mạng. Cách mạng trong đời sống văn học và cách mạng trong bản thân từng thể loại văn học.

  • THÁI PHAN VÀNG ANHTừ sau 1986, sự đổi mới tư duy nghệ thuật, sự mở rộng phạm trù thẩm mĩ trong văn học khiến truyện ngắn không những đa dạng về đề tài, phong phú về nội dung mà còn có nhiều thể nghiệm, cách tân về thi pháp. Mỗi nhà văn đều lí giải cuộc sống từ một góc nhìn riêng, với những cách xử lí ngôn ngữ riêng. Hệ quả tất yếu là truyện ngắn Việt đương đại đã gặt hái được nhiều thành công trên nhiều phương diện, trong đó không thể không kể đến ngôn ngữ trần thuật.

  • TRẦN HOÀI ANH              1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.

  • NGUYỄN DƯƠNG CÔN   Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.

  • LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?

  • PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...

  • HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

  • PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.

  • PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ.                       L.Tonstoi

  • TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.

  • PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.

  • HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...

  • NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".