Dành cho nhân dân trước…

10:43 31/07/2009
TẤN HOÀIHưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí MinhĐêm đó, Bác nghỉ lại tại Cọt Mạ - một thị trấn nhỏ của Trung Quốc, thị trấn nhỏ như một bản miền núi miền nam Trung Quốc, có một cái chợ nhỏ, cách biên giới Việt Nam khoảng trên bốn cây số. Tất nhiên, đó là một cơ sở của cách mạng Trung quốc. Hôm sau, Bác về nước cùng với những đồng chí Việt Nam đi đón Bác trong đó có Dương Đại Lâm, Lê Quảng Ba, Bằng Giang. Những người này về sau trở thành cán bộ lãnh đạo của khu tự trị Việt Bắc. Bác về đúng vào tháng 2 năm 1941. Bác đã ghi trên một phiến đá trong hang Cốc Bó, nằm trong khu vực Pác Bó. Gia tài Bác chỉ có một chiếc va li cũ đan bằng mây, bên cạnh một chiếc máy đánh chữ mà Bác luôn luôn xách bằng tay.

Nhân dân Pác Bó nồng nhiệt đón tiếp Hồ chủ tịch về thăm (20.2.1961)

Bác mặc một bộ áo quần màu xanh chàm của người Nùng, vì vùng này, cả phía bên Trung Quốc đều là dân tộc Nùng. Đội chiếc nón bẹt rộng vành, đi đôi giày vải tự may của người dân tộc, Bác đã trở thành ông già Thu, tiếng Nùng gọi là Ké Thu, về sau nhiều người cứ gọi là ông Ké. Bác dừng lại bên cột mốc 108 giữa biên giới Việt Nam - Trung Quốc một lúc. Có lẽ trong giây phút này là giây phút cảm động nhất trong đời Bác sau đúng 30 năm xa Tổ quốc. Bác ra đi vào năm 1911, chia tay đất nước trên cảng Nhà Rồng, và trở lại năm 1941 - đúng 30 năm. Có lẽ trong đời người, không có gì đáng ghi nhớ hơn khi nhìn và gặp mẹ sau đằng đẵng 30 năm trời. Từ cột mốc xuống dốc, đến con suối đầu nguồn Pác Bó, các đồng chí địa phương đã chọn cho Bác cái hang Cốc Bó lưng chừng núi làm chỗ nghỉ.

Từ dưới suối Pác Bó, phải leo lên mấy chục mét sườn núi đầy cây cối rậm rịt mới vào hang. Hang rộng khoảng hơn một căn nhà, nhưng những thạch nhũ - măng đá từ trên trần thõng xuống và dưới mọc lên đã chiếm gần hết phần hang. Bác nghỉ trên mấy tấm phản mộc mà nhân dân đã mang vào. Chỉ có một mảnh chiếu, không chăn, không màn, đêm đốt một đĩa dầu sở - thứ dầu nhân dân tự ép bằng quả sở. Đêm trong hang núi đá rất lạnh, Bác phải đốt thêm một đống lửa để sưởi. Đã là mùa xuân, nhưng vẫn rất lạnh, hoặc những lúc mưa gió, rắn còn chui vào ngủ dưới tấm phản của Bác. Nhưng Bác chỉ có một mình! Mãi sau Bác mới dời ra ở lán Khuổi Nậm mé bên ngoài suối Pác Bó. Nhìn lên cả dãy núi cao, và Bác đã đặt tên cho ngọn núi cao nhất là núi Mác, và dòng suối Pác Bó là suối Lê - Nin. Tên núi và tên suối có từ đó cho đến tận bây giờ, thỉnh thoảng các đồng chí cùng lên họp với Bác ở hang đầu nguồn Pác Bó. Ở đầu ngọn suối này, nước cạn, trong vắt, sát bờ có một mỏm đá nhô ra, Bác đã kê làm một cái bàn - bàn đá và chỗ ngồi vừa tầm cũng là một mỏm đá. Cứ sáng sáng, Bác xuống suối, tập thể dục và làm việc tại bàn đá. Cây cối xung quanh che phủ nên cũng rất mát mẻ, và lại có sẵn suối, nên Bác làm việc được nhiều. Bác đã dịch từ tiếng Nga quyển lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô tại bàn đá này. Ngày ngày nhân dân mang cơm nước vào đây cho Bác, và cũng chính tại nơi này, Bác đã kết nạp người con gái Cao Bằng đầu tiên là Nông Thị Trưng vào Đảng.

Ở Khuổi Nậm ít lúc, Bác lại ra ở tại nhà đồng chí Dương Đại Lâm một thời gian nữa rồi sau mới về Tân Trào. Nhà Dương Đại Lâm ở cạnh cầu Pác Bó, bên suối Pác Bó - tức là suối Lê-Nin. Có cái bến trước mặt nhà, hằng ngày Ké Thu thường ra tắm cho các em nhỏ trong cái “loóng” - giống như cái thuyền nhỏ, một loại máng gỗ dân dùng để đập lúa.

Tại Pác Bó, Bác đã xây dựng cơ sở, huấn luyện cho phong trào cách mạng chung của cả nước. Ngày Tết, Bác cũng “lì xì” cho các em bằng những phong bao giấy đỏ như phong tục dân tộc địa phương. Nhân dân Pác Bó rất cảm phục và thương yêu Ké Thu. Bác đã xem Pác Bó như quê hương thứ hai của mình, nên nhân dân càng xem Bác như người nhà.

Sau khi cách mạng thành công, Bác về làm Chủ tịch nước ở tại Hà Nội. Và đến năm 1961, Bác trở lại thăm Pác Bó. Nếu năm 1941, Bác đã viết những câu thơ:

Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang

thì năm 1961 về thăm lại Pác Bó, Bác lại viết:

Hai mươi năm trước ở hang này
Đảng vạch con đường đánh Nhật Tây;
Lãnh đạo toàn dân ta chiến đấu
Non sông gấm vóc có ngày nay.

Chính những năm ở Pác Bó, Bác đã để lại bao nhiêu tình cảm, sự yêu mến, sự kính phục đối với nhân dân, vì thế cũng chính năm 1961, khi Bác lên thăm lại Pác Bó, có một sự kiện mà nhân dân càng thêm cảm phục yêu mến lãnh tụ của mình.

Lúc đó tỉnh Cao Bằng cùng nhân dân Pác Bó chuẩn bị xây ngôi nhà lưu niệm về Bác ngay tại đầu làng Pác Bó, gạch, xi măng, vật liệu đã chở về tập trung đầy đủ, chỉ chờ ngày khởi công. Vừa lúc Bác lên thăm, khi Bác đi ngang qua nơi chuẩn bị mở công trường xây dựng, Bác đã hỏi:

- Các đồng chí định xây dựng cái gì đây?

Cán bộ Cao Bằng và Pác Bó đành thưa thật với Bác:

- Chúng cháu định xây dựng ngôi nhà lưu niệm Bác tại đây.

Bác sửng sốt ngạc nhiên, và Bác xua tay dứt khoát:

- Các đồng chí hãy xem, nhân dân còn sống ra sao? Nhà tranh vách đất, đèn dầu, chưa có trạm xá, chưa có trường học, thế thì lưu niệm Bác để làm gì? Làm sao Bác yên tâm được! Hãy mang tất cả các thứ này ra xây trạm xá, trường học cho xã Trường Hà (Pác Bó nằm trong xã Trường Hà) hay trạm phát điện cho xã. Các đồng chí hãy thi hành ngay!

- Sau khi Bác về, tỉnh Cao Bằng và nhân dân Pác Bó đã tuân theo ý của Bác và, ít lâu sau đó, xã Trường Hà đã có một trạm xá và một nhà máy thuỷ điện phục vụ rộng khắp cả một vùng. Nhân dân phấn khởi, khi đến khám bệnh buổi đầu tiên, khi bật ngọn đèn điện đầu tiên trên đất Pác Bó nghĩa tình đối với Bác.

Ơn sâu của Bác những ngày ở Pác Bó không thể phai mờ nên mãi đến tận khi Bác mất rồi, nhân dân Pác Bó mới dám xây ngôi nhà lưu niệm.

Rất cảm động nữa là nhân dân xin để tang Bác ba năm như con đối với cha mẹ, nhưng sau khi bàn bạc, tỉnh uỷ đã đề nghị rút xuống một năm.

Trước mặt nhà đồng chí Dương Đại Lâm, có cái miếu nhỏ thờ Bác, suốt một năm ròng đều cúng cơm hàng ngày cho Bác và nhân dân thường xuyên đến dâng những sản vật tự mình làm ra.

Với cả nước, với một vùng Pác Bó, Bác vẫn sống trong lòng nhân dân. Vì sao? Vì Bác đã sống vì nhân dân - vì Bác luôn luôn lo cho người khác, chứ không bao giờ lo cho mình!

T.H
(245/07-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...