Chân dung Đặng Huy Trứ - Ảnh: bee.net.vn
Vì thế, quan niệm văn chương thường như những hạt bụi vàng được tiềm ẩn trong sáng tác. Nhiệm vụ của hậu sinh chúng ta là phải biết đào xới lên những gì ẩn mật sâu lắng ấy, để hiểu rõ giá trị đích thực trong mạch ngầm truyền thống của cha ông. Quan niệm văn chương của Đặng Huy Trứ (1825 - 1874) phần nào chịu sự quy định bởi tính chất chung của quan niệm cổ điển. Tuy nhiên, ông là một nhà văn hóa lớn, nhà tư tưởng tiến bộ, nên quan niệm văn chương của ông có những yếu tố mới mẻ, độc đáo. Đặng Huy Trứ là một nhà sáng tác chứ không phải là một lý luận văn học. Thế nhưng qua sáng tạo nghệ thuật, ông cũng đã hình thành cho mình một hệ thống lý luận khá hoàn chỉnh. Vì thế, trước tác của Đặng Huy Trứ là cơ sở để chúng ta tìm hiểu quan niệm văn chương của ông. Qua tác phẩm, cho phép chúng ta hiểu được thái độ, cách nhìn của Đặng Huy Trứ về văn chương. Quan niệm văn chương của Đặng Huy Trứ được thể hiện trên nhiều mặt. Ông đã từng bàn đến bản chất, chức năng và ý nghĩa của thơ ca; thơ ca với cái đẹp và sự sáng tạo nghệ thuật. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến phương diện: Thơ ca - một món ăn tinh thần kỳ diệu (thực chất, đó là sức cảm hóa của thơ ca, ý nghĩa của thơ ca đối với đời sống tinh thần). Đây là một vấn đề lý luận khá lý thú, đã được Đặng Huy Trứ bày tỏ một cách sâu sắc qua các tác phẩm của mình. Thơ thực sự có tính chất linh diệu (mặc dù nó luôn nằm giữa "khả giải" và "bất khả giải". Từ đời Lê, Nguyễn Hành đã nhận thức rằng: "Tiếng kêu não nùng của con cuốc, cuối cùng là lơ lửng trên cành cây mà thôi; ta kêu bằng văn chương chữ nghĩa đến quyển sách cũng là tột cùng. Nó sẽ có âm thanh đặc biệt. Ai là người nghe thấy được, lại có thể hòa theo được để nối tiếp quyển sách này mà kêu lên" (Từ trong di sản - tr.103). Thơ, vì thế luôn đồng hành với cuộc sống, với tâm linh con người. Đặng Huy Trứ và các học giả xưa không những bàn sâu mà còn bàn hay về "món ăn tinh thần" làm "no lòng người" (chữ của Đặng Huy Trứ). Theo Đặng Huy Trứ, ý nghĩa và sức sống của thơ là ở sự lay động tâm hồn và cảm hóa lòng người. Từ chỗ so sánh thơ với họa, Đặng Huy Trứ đã bộc lộ quan niệm về thơ rất độc đáo: "tranh để nuôi con mắt, thơ để nuôi tấm lòng" (TP - tr. 442)*. Quả vậy, hội họa là hình tượng vô ngôn, nó cảm hóa ta bằng màu sắc, đường nét, hình khối, nó là vật thể im lặng không biết thổn thức. Còn thơ, thơ biết nói, biết lên tiếng. Viên Mai, nhà lý luận cổ điển Trung Quốc cũng cho rằng: "Cái gọi là thơ thì gốc rễ là tình cảm, mầm lá là ngôn ngữ, hoa là âm thanh, quả của nó là ý nghĩa. Không ai nghe âm thanh mà không phản ứng, không ai giao tiếp với tình cảm mà không cảm hóa" (Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc - tr.160). Từ cái gốc tình cảm - sức sống mãnh liệt của thơ, Đặng Huy Trứ đi đến khẳng định đặc trưng của văn chương. Và ông đưa thơ lên tuyệt đỉnh của sự kỳ diệu: "Ôi, làm cảm động lòng người chẳng có gì hay bằng thơ" (Tựa tập thơ và tranh vẽ 48 người con có hiếu). Sức mạnh của thơ, sự chinh phục tâm hồn của thơ rõ ràng đã được Đặng Huy Trứ nhận thức một cách sâu sắc. Ý tưởng này của Đặng Huy Trứ về sau sẽ gặp gỡ với Tản Đà - một người có tâm huyết nồng cháy về thơ. "Thơ ca có cái năng lực khiến được người, nó ảnh hưởng trong chín châu ngoài bể... Thơ làm cho con người không quen ai mà yêu, không biết ai mà nhớ, không chỉ non thề bể mà nặng vì non nước" (Những kiến giải về thơ hồi đầu thế kỷ - Tạp chí vặn học, Số 12, 1996). Điều gì khiến cho thơ có khả năng chinh phục lòng người đến vậy? Phải chăng, nhân loại đã đặt lên đối vai nhà thơ một nhiệm vụ cao quý: "cứu rỗi linh hồn" và biến cải cuộc đời bằng cái đẹp? Ngọt ngào và cay đắng chính là ngọn lửa để nung cháy tâm hồn nhà thơ và bạn đọc. Từ đây, Đặng Huy Trứ ý thức rằng: chính thơ và bắt nguồn từ thơ nó sẽ mang đến cho con người nguồn tri thức vô tận cho bản thân, niềm kiêu hãnh, bền vững cho nước nhà. Ông nói: "Nước ta bền vững muôn phúc, văn hiến trăm năm, các bậc thánh hiền nối nhau đề cao thi giáo. Từ khi thành giang sơn đến nay, thơ mà các bậc danh nho đức lớn, nổi tiếng ở đời ngâm vịnh thì đứa trẻ nhỏ cũng thuộc lòng, sự thịnh vượng của thi giáo là nguồn gốc vậy" (TP - tr.125). Theo Đặng Huy Trứ, thơ ca là nguồn suối dào dạt để nuôi dưỡng tâm hồn và nhân cách con người. Thơ từ lòng người và tìm đến con người, tìm đến thế giới của CHÂN - THIỆN - MỸ, làm cho con người - Người hơn. Ông cho rằng: Thơ là phép giữ đạo nhà, là phép tắc đối nhân xử thế trong gia tộc và xã hội. Ông tự bộc bạch: "Lúc nhỏ, cha được ông nội là Trang Khải dạy bảo, nhắc nhở đều là lời hay, việc tốt của người xưa, khi buông sách ra thì những điều nghe được là những lời nói phải, những điều trông thấy là việc làm hay" (TP - tr. 458). Từ nhận thức trên, Đặng Huy Trứ xem thơ là người bạn, là món ăn tinh thần không thể thiếu được trong cuộc sống hàng ngày: Thanh thiên bạch nhật cùng tâm sự / Gió mát trăng thanh ấy bạn bầu (TP-tr.177). Trong gian nan thử thách, trong buồn đau của cuộc đời, giữa những nhân tình thế thái, thơ ca đã trở thành người bạn tri âm để giãi bày tâm sự, nâng đỡ tâm hồn. Không biết từ bao giờ, thơ ca đã trở thành người kết duyên với thi nhân: Duyên xưa gắn bạn tâm đồng / Tinh thần bất tử vẫn ngời sách đây / Từng chương bút xóa lòa mây / ... Nghiến răng trong mọng ngùi thương cõi bờ (TP - tr. 402). Đối với Đặng Huy Trứ, thơ ca đã trở thành một nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của ông: "Tôi vón thích thơ đã trở thành thói quen, khi sang Quảng Đông đã không tiếc tiền bỏ ra sưu tầm thơ hay xếp thành 10 bộ, ngày đêm xem và thuê người chép lại" (TP - tr. 424). Rất tiếc, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa tìm thấy 10 bộ sách này do ông sưu tập. Với niềm say mê, yêu thích trên, Đặng Huy Trứ xem sách là một vật quý hơn châu báu, vàng ngọc. Thơ văn đã trở thành một phương thức sống, một chìa khóa kỳ diệu để mở cửa cho tâm hồn bốn phương lộng gió: "Bốn bức tường là sách, những vật báu của nhà Nho". Xưa, Trần Toại, đời Lý - Trần cũng nhận thức như vậy! "Xưa nay có cái gì mà cuối cùng không thành đất. Sau khi chết, chỉ có thơ là khả dĩ hơn vàng" (Thơ văn Lý Trần - Tạp chí văn học, Số 5 - 1974). Tất nhiên, một số nhà nho khác đi ngược lại quan điểm này. Với họ: "Văn chương chung số phận mục nát với muôn loài". Trần Thái Tông cho rằng: "Dẫu rằng văn chương tài thế, dù cho tài mạo khuynh thành, cuối cùng nào có khác chi, rút cuộc cũng đồng một duộc - khóa hư lục - phô thuyết sắc thần" (Quan niệm văn học thời Lý - Trần - Tạp chí văn học, Số 6 - 1974). Trần Minh Tông đến phút lâm chung, sai bề tôi mang những bản chép thơ chế ngự ra đốt đi và nói rằng: "Vật đáng tiếc còn không thể tiếc được, tiếc làm chi cái thứ ấy". Ở đây, Trần Thái Tông và Trần Minh Tông chịu ảnh hưởng quan niệm "sắc, không", xem văn chương rút cuộc cũng không thể thoát khỏi vòng "sinh, diệt". Đây là một quan niệm văn chương mang tính tiêu cực. Đặng Huy Trứ và các tác giả sau này đã vượt qua hạn chế ấy. Ông luôn tỏ ra trân trọng và quý mến văn chương, thấy được sức sống bền vững và tính "muôn đời" của văn chương. Với lẽ trên, Đặng Huy Trứ xem thơ là món làm no lòng người, có thể ví như những món ăn cao lương mỹ vị khác. Trong bài "Nhị vị tập", Đặng Huy Trứ thể hiện niềm yêu thích ấy một cách di dỏm, đầy thú vị. Ông xem cách nấu nướng và thưởng thức những món ăn cũng như cách thưởng thức và sáng tạo thơ ca: "Tôi vốn mê cuốn "Tạc phi am tập", ví như mâm có nhiều món rau thịt đủ cả, nhưng đọc sách này có khi quên cả ăn. Chỉ hận ở nhà không trữ được cuốn nào, mà mượn thì phải trả. Kẻ đi xin dấm quanh hàng xóm mà chẳng ai cho thường than rằng, nêm canh mà chẳng có muối và mỡ" (Tựa cuốn "Nhị vị tập" khắc in lần thứ 2 - TP - tr.508). Cầm cuốn sách trên tay, ông vui mừng và ví: "Chẳng khác nào đứng trước cửa hàng thịt mà nghĩ đến chuyện sắp được mời ăn" và có sách bên cạnh thì "cơ hồ không thiết đến mùi thịt nữa". Sỡ dĩ có được cảm xúc và niềm say mê trên, bởi Đặng Huy Trứ nhận thấy rằng, thơ ca là chiếc cầu đưa con người đến bến bờ của hạnh phúc: "Cuốn sách Học vấn tân sở dĩ làm ra...bởi nó là cánh cửa để đi đến mục đích cuối cùng của bến bờ khát vọng". Muốn tạo ra những tác phẩm văn học kỳ diệu, tác động sâu xa đến đời sống thẩm mỹ của con người, theo Đặng Huy Trứ, người nghệ sĩ phải thông qua khổ luyện, phải lao tâm, khổ tứ bằng chính máu huyết của mình. Ông ý thức rất rõ vấn đề sáng tạo trong nghệ thuật: Làm được câu thơ năm chữ, vặt đứt mấy hàng râu; thậm chí phải "Dụng phá nhất kinh tâm" (Khiến tim nát cả một đời). Làm thơ phải khổ luyện và gian truân như vậy, nên : "Ngâm một câu, vịnh một câu đều là tâm huyết cả". Thông qua cái đẹp và sự sáng tạo nghệ thuật, văn học có thể trở thành món ăn tinh thần kỳ diệu, làm say lòng người. Đặng Huy Trứ đã thấy rõ sức lay động tâm hồn và cảm hóa lòng người của thơ ca. Văn học, nhất là thơ ca có khả năng bồi đắp thêm đời sống tinh thần cho con người, hướng cảm xúc và tâm hồn chúng ta đến sự thanh cao, tao nhã. Đặng Huy Trứ đã không ngừng sáng tạo, truyền bá những tác phẩm thơ ca có ích cho đời. Hơn 1200 bài thơ của ông đều có sức chinh phục, cảm hóa sâu sắc lòng người. Mỗi tác phẩm của Đặng Huy Trứ đều toát lên tinh thần nhân đạo đáng quý. Thơ ông: "Lời lời là gấm vóc, ý ý là nghĩa nhân" (Vũ Đình Liên - một trong những người tham gia dịch thơ Đặng Huy Trứ). Và như có ý kiến nhận xét: "Tinh tế cao xa mà gần gũi, bay bổng mà thiết thực, duyên dáng - tình tứ mà vẫn trong sáng làu làu như gương soi, gợi mở bao la mà vẫn cô đọng, hàm súc" (Hoàng Công Khanh - Tính chất trữ tình trong thơ Đặng Huy Trứ). Xuất phát từ một quan điểm nghệ thuật chân chính, với Đặng Huy Trứ, văn chương không chỉ để cảm hóa lòng người, biến cải cuộc đời, mà còn góp phần tích cực vào sự phát triển đi lên của xã hội. Để những mong sao đất nước này: "Cúi không thẹn với đất, ngửa không thẹn với trời"; nhằm: "thoát khỏi nỗi nhục không bằng người" - như ông từng đớn đau, trăn trở... Mặc dù không có mặt trong vườn tinh hoa của "Từ trong di sản" **, nhưng qua nghiên cứu, chúng tôi cho rằng: Đặng Huy Trứ có thể sánh với gương mặt của Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu... Đi sâu vào trước tác của ông, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng: Đặng Huy Trứ là một tác gia xuất sắc không những về sáng tác mà cả về mặt lý luận! Văn chương ông không những mang nặng tính nhân văn mà còn thấm nhuần chất lý luận. Tiềm ẩn trong những sáng tác, Đặng Huy Trứ đã để lại cho đời một quan niệm sâu sắc, độc đáo về bản chất, chức năng, mục đích của văn chương (đặc biệt là thơ). Quan niệm ấy được đúc kết từ thực tiễn sáng tác và máu huyết trong cuộc đời hoạt động của ông. Vì thế, nó càng trở nên sâu sắc, nhuần nhuyễn và "xanh tươi" hơn. Đặng Huy Trứ là một nhà thơ lớn của văn học Việt nam thế kỷ XIX; một danh nhân văn hóa lớn của đất Thuận Hóa - Huế. T.H.S (136/06-00) ---------------------------------------- (1) PhạmTuấn Khánh (Chủ biên) - Đặng Huy Trứ - Con người và tác phẩm - NXB Thành phố Hồ Chí minh - 1990. (2) Trần Thanh Mại - Vài nét trong quan niệm văn học của Lê Quý Đôn - Tạp chí Văn học, số 4 - 1960. (3) Phương Lựu - Viên Mai và lý luận thơ cổ Trung Quốc -Tạp chí Văn học, số 1-1973. (4) Đỗ Văn Hỷ - Cái hay trong thơ xưa dưới con mắt của nhà thơ xưa - Tạp chí Văn học, Số 4-1983. (5) Trần Nghĩa - Quan niệm văn học thời Lý - Trần - Tạp chí Văn học , số 6 - 1974. (6) Trần Mạnh Tiến - Những biến giải về thơ hồi đầu thế kỷ - Tạp chí văn học, số 12 - 1996. (7) Nguyễn Minh Tấn (Chủ biên) - Từ trong di sản - NXB Tác phẩm mới - Hà Nội, 1981. * Đặng Huy Trứ - Con người và tác phẩm - NXB - Thành phố Hồ Chí Minh, 1990. ** Cuốn sách tập hợp những ý kiến người xưa bàn về văn chương. |
VÕ VĨNH KHUYẾN Tiểu luận nhằm tìm hiểu thành tựu thơ ca trong khoảng 16 tháng giữa 2 cột mốc lịch sử (19.8.1945 - 19.12.1946). Bởi khi phân chia giai đoạn văn học nói chung (thơ ca nói riêng) trong tiến trình lịch sử văn học, các công trình nghiên cứu, các giáo trình ở bậc Đại học - Cao đẳng và sách giáo khoa trung học phổ thông hiện hành, không đặt vấn đề nghiên cứu thơ ca (cũng như văn học) nói riêng trong thời gian này. Với một tiêu đề chung "Văn học kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954". Đây là nguyên do nhiều sinh viên không biết đến một bộ phận văn học, trong những năm đầu sau cách mạng.
HỒ THẾ HÀ1. Diễn đàn thơ được tổ chức trên đất Huế lần này gắn với chương trình hoạt động của lễ hội Festival lần thứ 3, tự nó đã thông tin với chúng ta một nội dung, tính chất và ý nghĩa riêng. Đây thực sự là ngày hội của thơ ca. Đã là ngày hội thì có nhiều người tham gia và tham dự; có diễn giả và thính giả; có nhiều tiếng nói, nhiều tấm lòng, nhiều quan niệm trên tinh thần dân chủ, lấy việc coi trọng cái hay, cái đẹp, cái giá trị của nghệ thuật làm tiêu chí thưởng thức, trao đổi và tranh luận. Chính điều đó sẽ làm cho không khí ngày hội thơ - Festival thơ sẽ đông vui, phong phú, dân chủ và có nhiều hoà âm đồng vọng mang tính học thuật và mỹ học mới mẻ như P.Valéry đã từng nói: Thơ là ngày hội của lý trí (La poésie est une fête de l'intellect).
THẠCH QUỲThơ đi với loài người từ thủa hồng hoang đến nay, bỗng dưng ở thời chúng ta nứt nẩy ra một cây hỏi kỳ dị là thơ tồn tại hay không tồn tại? Không phải là sự sống đánh mất thơ mà là sự cùn mòn của 5 giác quan nhận thức, 6 giác quan cảm nhận sự sống đang dần dà đánh mất nó. Như rừng hết cây, như suối cạn nước, hồn người đối diện với sự cạn kiệt của chính nó do đó nó phải đối diện với thơ.
NGUYỄN VĨNH NGUYÊNNhững năm gần đây, người ta tranh luận, ồn ào, khua chiêng gõ mõ về việc làm mới văn chương. Nhất là trong thơ. Nhưng cái mới đâu chẳng thấy, chỉ thấy sau những cuộc tranh luận toé lửa rốt cục vẫn là: hãy đợi đấy, lúc nào đó, sẽ... cãi tiếp...
TRẦN VĂN LÝAi sản xuất lốp cứ sản xuất lốp. Ai làm vỏ cứ làm vỏ. Ai làm gầm cứ làm gầm. Nơi nào sản xuất máy cứ sản xuất máy. Xong tất cả được chở đến một nơi để lắp ráp thành chiếc ô tô. Sự chuyên môn hoá đó trong dây chuyền sản xuất ở châu Âu thế kỷ trước (thế kỷ 20) đã khiến cho nhiều người mơ tưởng rằng: Có thể "sản xuất" được thơ và sự "mơ tưởng" ấy vẫn mãi mãi chỉ là mơ tưởng mà thôi!
HOÀNG VŨ THUẬTChúng ta đã có nhiều công trình, trang viết đánh giá nhận định thơ miền Trung ngót thế kỷ qua, một vùng thơ gắn với sinh mệnh một vùng đất mà dấu ấn lịch sử luôn bùng nổ những sự kiện bất ngờ. Một vùng đất đẫm máu và nước mắt, hằn lên vầng trán con người nếp nhăn của nỗi lo toan chạy dọc thế kỷ. Thơ nảy sinh từ đó.
BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng dáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ , Xuân Diệu, Huy Cận, Lưu Trọng Lư, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v.v... Đồng thời, Thơ mới là một hiện tượng thơ ca gây rất nhiều ý kiến khác nhau trong giới phê bình, nghiên cứu và độc giả theo từng thời kỳ lịch sử xã hội, cho đến bây giờ việc đánh giá vẫn còn đặt ra sôi nổi. Với phạm vi bài viết này, chúng tôi điểm lại những khái niệm về Thơ mới và sự đổi mới nghệ thuật thơ của các bậc thầy đi trước và tìm câu trả lời cho là hợp lý trong bao nhiêu ý kiến trái ngược nhau.
MẠNH LÊ Thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX đã thu được những thành tựu to lớn đóng góp vào sự phát triển của lịch sử thơ ca dân tộc. Đặc biệt từ ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời thay thế chế độ phong kiến thực dân hơn trăm năm đô hộ nước ta cùng với khí thế cách mạng kháng chiến cứu nước theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh tháng 12 năm 1946 đã thổi vào đời sống văn học một luồng sinh khí mới để từ đó thơ ca hiện đại Việt Nam mang một âm hưởng mới, một màu sắc mới.
NGUYỄN KHẮC THẠCHNếu gọi Huế Thơ với tư cách đối tượng thẩm mĩ thì chủ thể thẩm mĩ của nó trước hết và sau cùng vẫn là sự hoá sinh Thơ Huế. Đương nhiên, không hẳn chỉ có Thơ Huế mới là chủ thể thẩm mĩ của Huế Thơ và cũng đương nhiên không hẳn chỉ có Huế Thơ mới là đối tượng thẩm mĩ của Thơ Huế. Huế Thơ và Thơ Huế vẫn là hai phạm trù độc lập trong chừng mực nào đó và có khi cả hai đều trở thành đối tượng thẩm mĩ của một đối tượng khác.
ĐỖ LAI THÚYThanh sơn tự tiếu đầu tương hạc Nguyễn KhuyếnNói đến Dương Khuê là nói đến hát nói. Và nói đến hát nói, thì Hồng Hồng, Tuyết Tuyết làm tôi thích hơn cả. Đấy không chỉ là một mẫu mực của thể loại, mà còn làm một không gian thẩm mỹ nhiều chiều đủ cho những phiêu lưu của cái đọc.
NGUYỄN NGỌC THIỆNHải Triều tên thật là Nguyễn Khoa Văn, sinh năm 1908 trong một gia đình Nho học, khoa bảng. Năm 20 tuổi, trở thành đảng viên trẻ của Tân Việt cách mạng Đảng, Nguyễn Khoa Văn bắt đầu cầm bút viết báo với bút danh Nam Xích Tử (Chàng trai đỏ). Điều này đã khiến trong lần gặp gỡ đầu tiên, người trai có "thân hình bé nhỏ và cử chỉ nhanh nhẹn theo kiểu chim chích" (1) ấy đã gây được cảm tình nồng hậu của Trần Huy Liệu- chủ nhiệm Nam Cường thư xã, người bạn cùng trang lứa tuy vừa mới quen biết, nhưng đã chung chí hướng tìm đường giải phóng cho dân tộc, tự do cho đất nước.
TÔ VĨNH HÀ Huế đang trở lạnh với "mưa vẫn mưa bay" giăng mờ như hư ảo những gương mặt người xuôi ngược trên con đường tôi đi. Tôi giật mình vì một tà áo trắng vừa trôi qua. Dáng đi êm nhẹ với cánh dù mỏng manh như hơi nghiêng xuống cùng nỗi cô đơn. Những nhọc nhằn của tuổi mơ chưa đến nỗi làm bờ vai trĩu mệt nhưng cũng đủ tạo nên một "giọt chiều trên lá(1), cam chịu và chờ đợi nỗi niềm nào đó hiu hắt như những hạt mưa...
NGUYỄN HỒNG DŨNG1. Một cuộc đời lặng lẽ và những truyện ngắn nổi danhO' Henry, tên thật là William Sydney Porter, được đánh giá là người viết truyện ngắn xuất sắc nhất của nước Mỹ những năm đầu thế kỷ XX. Ông sinh tại Greenboro, tiểu bang North Carolina vào năm 1862. Năm 15 tuổi (1877), ông thôi học và vào làm việc trong một hiệu thuốc tây. Vào tuổi hai mươi, ông bị đau nặng và sức khoẻ sa sút nên đã đến dưỡng sức ở một nông trại tại tiểu bang Texas. Ông đã sống ở đấy hai năm, đã làm quen với nhiều người và hiểu rất rõ tính cách miền Tây. Sau này, ông đã kể về họ rất sinh động trong tập truyện ngắn có tựa đề đầy xúc cảm Trái tim miền Tây.
MAI KHẮC ỨNGCó thể sau khi dẹp được loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng (968- 979) thống nhất lãnh thổ và lên ngôi hoàng đế, đã đặt được cơ sở ban đầu và xác định chủ quyền Đại Cồ Việt lên tận miền biên cương Tây Bắc vốn là địa bàn chịu ảnh hưởng Kiểu Công Hãn. Trên cơ sở 10 đạo thời Đinh nhà vua Lý Thái Tổ (1010- 1028) mới đổi thành 24 phủ, lộ. Nguyễn Trãi viết Dư địa chí (thế kỷ XV) vẫn giữ nguyên tên gọi đạo Lâm Tây. Tức vùng Tây- Bắc ngày nay.
TRẦN ANH VINHÂm vang của những sự kiện xẩy ra năm Ất Dậu (1885) không những vẫn còn đọng trong tâm trí người dân núi Ngự mà còn được ghi lại trong một số tác phẩm. Bài vè “Thất thủ Kinh đô” do cụ Mới đi kể rong hàng mấy chục năm ròng là một tác phẩm văn học dân gian, được nhiều người biết và ngưỡng mộ. Riêng Phan Bội Châu có viết hai bài:+ Kỷ niệm ngày 23 tháng Năm ở Huế (Thơ)+ Văn tế cô hồn ngày 23 tháng Năm ở Kinh thành Huế.
HOÀNG CÔNG KHANHCó một thực tế: số các nhà văn cổ kim đông tây viết tiểu thuyết lịch sử không nhiều. Ở Việt Nam càng ít. Theo ý riêng tôi nguyên nhân thì nhiều, nhưng cơ bản là nhà văn viết loại này phải đồng thời là nhà sử học, chí ít là có kiến thức sâu rộng về lịch sử. Cũng nhiều trường hợp người viết có đủ vốn liếng cả hai mặt ấy, nhưng hoặc ngại mất nhiều công sức để đọc hàng chục bộ chính sử, phải sưu tầm, dã ngoại, nghiên cứu, đối chiếu, chọn lọc hoặc đơn giản là chưa, thậm chí không quan tâm đến lịch sử.
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG Tặng Đỗ Lai ThuýChủ nghĩa hiện đại là kết quả của những nỗ lực hiện đại hoá đời sống và tư duy xẩy ra từ những năm cuối của thế kỷ XIX, ở Châu Âu. Những thành tựu nổi bật của khoa học tự nhiên, của triết học, xã hội học và tâm lí học đã tác động đến cách nghĩ của con người hiện đại trước các vấn đề về tồn tại, đạo đức, tâm lí. Tư tưởng của Nietzsche, Husserl, hay Freud không chỉ ảnh hưởng đến tư duy hiện đại mà tiếp tục được nhắc đến nhiều ở thời hậu hiện đại.
ĐẶNG TIẾNTân Hình Thức là một trường phái thi ca hiện đại được phổ biến từ năm bảy năm nay, phát khởi do Tạp Chí Thơ, ấn hành tại Mỹ, chủ yếu từ số 18, xuân 2000 “chuyển đổi thế kỷ”, và được nhiều nhà văn, nhà thơ trong và ngoài nước hưởng ứng. Tên Tân Hình Thức dịch từ tiếng Anh New Formalism, một trường phái thơ Mỹ, thịnh hành những năm1980 - 1990.
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP Một ngày kia, cát bụi vùng Hoan Diễn đã sinh tạo một “kẻ ham chơi”. Y cứ lãng đãng trong đời như một khách giang hồ mang trái tim nhạy cảm, một trái tim đầy nhạc với những đốm lửa buồn. Để rồi sau những cuộc say tràn cung mây, khi dòng cảm hứng chợt bùng lên từ những vùng u ẩn nằm sâu trong cõi nhớ, những giai âm ùa về như những luồng điện làm vỡ òa bí mật: có thương có nhớ có khóc có cười- có cái chớp mắt đã ngàn năm trôi. Đây là những câu thơ khép lại một trong những bài thơ hay nhất của Nguyễn Trọng Tạo: Đồng dao cho người lớn(1).
NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.