Đàn Nam Giao được phục hồi

15:40 25/03/2022

HOÀNG XUÂN NHU

Đàn tế trời lộ thiên này được khởi công xây dựng vào ngày 25-3-1806 dưới sự đốc công của Thống chế Phạm Văn Nhân và hoàn thành cuối năm đó, qua đầu năm 1807 triều đình Gia Long bắt đầu cử hành lễ Nam Giao lần đầu tiên tại đây.

Đàn Nam Giao trong dịp lễ

Khuôn viên đàn Nam Giao hình chữ nhật chiều dài 390m, chiều rộng 265m, giới hạn bởi một vòng tường thành xây bằng đá bọc chung quanh. Trong khuôn viên ngày xưa trồng rất nhiều thông. Về phía nam Đàn tế có trồng một cụm thông tượng trưng cho vua Gia Long, còn những cây thông khác trồng riêng rẻ, tượng trưng cho các hoàng thân và văn võ bá quan. Mỗi cây thông đầu có đeo một thẻ bài bằng đồng hay bằng đá có khắc họ tên chức tước người trồng cây, thời gian trồng cây, các quan từ tứ phẩm trở lên trong triều đình, các quan địa phương trong dịp về kinh dự lễ Nam Giao đều phải lên đàn trồng thông. Quy định này được giữ mãi cho đến triều Thiệu Trị, Tự Đức. Đến năm 1884, Vua Hàm Nghi lại ấn định: Sau khi thăng trật và làm lễ bái mạng xong, các quan phải lên đàn Nam Giao tự mình trồng thông dưới sự giám sát của một viên quan Bộ Công và một viên quan Bộ Lễ. Mỗi vị đều có trách nhiệm đều phải chăm sóc một cây thông, nếu thông chết phải trồng lại. Năm 1834, trong một dịp tế Nam Giao chính vua Minh Mạng đã tự tay trồng mười cây thông ở Trai Cung; nhà vua cho treo bảng đồng khắc bài minh do chính nhà vua soạn lên trên mỗi thân cây. Nhờ chính sách "trồng cây gây rừng" qua các triều đại từ 1806 đến 1945 mà ngày xưa ở đàn Nam Giao có được một rừng thông xanh rì bát ngát. Thiết nghĩ bài học vua quan Nhà Nguyễn trồng thông ở đàn Nam Giao đáng để cho ngươi đời suy ngẫm, tham khảo và vận dụng.

Thẻ bài bằng đồng to bằng bàn tay dày 0,5cm treo ở mỗi cây thông Nam Giao

Mặt 1: Thiệu Trị lục niên Bính Ngọ.
Mặt 2: Thủy sư hữu doanh nht vệ Chưởng vệ Nguyn Doãn thực.

(Dịch nghĩa: 1) Năm Bính Ngọ - Thiệu Trị năm thứ sáu. 2) Cây do Chưởng vệ thứ nhất Nguyễn Doãn trồng. Ông Doãn thuộc Hữu doanh Thủy quân đóng ở Huế).

Đàn Nam Giao được xây dựng ở phía Nam kinh thành Huế, gồm ba tầng: hai tầng dưới hình vuông, gọi là Phương Đàn, tượng trưng cho Đất, tầng trên hình tròn, gọi là Viên Đàn, tượng trưng cho Trời. Bốn mặt đàn hướng về bốn phương, đều có tam cấp bước lên mỗi tầng. Phía tả có sở Thần khố và Thần trù, là nhà kho và là nơi sửa soạn lễ vật mỗi lần tế lễ. Phía hữu có Trai Cung là nơi nhà vua ngự để trai giới trước lúc hành lễ.

Theo tục lệ cổ, cứ ba năm một lần, vào mùa xuân, chọn ngày lành tháng tốt, đến giờ nhất định thì nhà vua cử hành lễ tế trời ở đàn Nam Giao, gọi là lễ Nam Giao.

Nếu tính từ thời vua Hùng cho tới ngày nay, cả nước ta có nhiều di tích đàn tế Giao ở nhiều địa phương khác nhau. Song hiện nay chỉ tồn tại một di tích đàn Nam Giao ở Huế, còn tất cả các đàn khác đã bị mai một và hủy hoại hoàn toàn theo thời gian và tiến trình lịch sử của đất nước.

Trong quần thể di tích cố đô Huế ngày nay bao gồm cung điện, đền đài, miếu mạo, lăng tẩm... nếu không tính đến đàn Nam Giao là một thiếu sót lớn. Gắn với lễ Nam Giao, nó gọi nhớ một thời thịnh trị, thống nhất sơn hà của chế độ phong kiến, đồng thời phản ánh một nét văn hóa cung đình khá độc đáo của Việt Nam. Nó nằm ở vị trí trung tâm của quần thể di tích cố đô, cách kinh thành không xa, đang cùng chung số phận với các di tích khác: Bị bào mòn và hủy hoại hữu hình bởi con ngươi thời gian, mưa nắng, bão tố và chiến tranh. Song số phận đàn Nam Giao càng hẩm hiu hơn: bị bào mòn và hủy hoại vô hình, nếu trong ký ức con người không còn dấu ấn của nơi tế Trời cách đây ngót nửa thế kỷ trở về trước, và càng nghiêm trọng hơn nếu nhận thức của các cơ quan trách nhiệm ở trung ương và địa phương quá giản đơn, tùy tiện và thực dụng trong việc khai thác và sử dụng di tích.

Gần 15 năm qua di tích đàn Nam Giao đã được sử dụng không đúng mục đích của nó. Nhân dân thành phố Huế vô cùng phấn khởi được tin gần đây Bộ Văn hóa - Thông tin và ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế có kế hoạch triển khai việc xây dựng đài liệt sĩ tại một địa điểm khác, tạo điều kiện trùng tu, tôn tạo đàn Nam Giao đúng nguyên trạng của nó, làm cho nó tương xứng với vị trí trung tâm của quần thể di tích cố đô Huế, tương xứng với giá trị có tầm cỡ vừa quốc gia vừa quốc tế của quần thể di tích này. Việc làm này phù hợp lòng dân, được nhân dân cả nước hoan nghênh.

H.X.N
(TCSH53/01&2-1993)

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)