Đắm say với “Ảo giác”

10:06 25/03/2009
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)


V
ới tài thơ biến hoá khôn lường, thoắt ẩn thoắt hiện như ma trơi trong những đêm mưa ẩm ướt mùa xuân, bên những ngôi mộ vừa chôn cất... Tuyết Nga-người đàn bà ảo mờ sương khói, có đôi mắt trầm tĩnh thẳm sâu, có cái nhìn lạnh giá đầy ma lực của phù thuỷ... đã đưa chúng ta đến một thế giới lạ lẫm, huyền ảo mông lung mà người gọi tên là Ảo giác - Nơi sức mạnh huyền bí của thánh thần cùng ma quỷ đang ngự trị. Nơi những điệu múa đầy giông gió, những tiếng hú còn hoang sơ, những bài ca bi tráng ai oán luôn đựơc phô diễn và cất lên rừng rực như lửa cháy... mà ta chỉ có thể cảm nhận qua những rung động, xao xuyến của con tim, chứ không thể diễn đạt rành mạch được bằng lời. Vâng, đó là thế giới thơ Tuyết Nga, hay nói một cách khác: thơ Tuyết Nga là vậy.

Như một kẻ lạc đường ngoan ngoãn, ngay từ phút đầu tiên, khi ta bước chân vào vùng “ảo giác” ma mị của chị, ta đã bị mê hoặc, ngất ngây đắm say. Một cơn lốc kinh dị và kì thú của ngôn từ đã cuốn ta bay bổng lên không trung, nhẹ như một chiếc lông chim. Ta không còn biết đâu là trời đất nữa, ta chỉ thấy hồn mình run lên trong niềm khoái cảm mới lạ. Đó là lúc Tuyết Nga mặc bộ đồ của đêm tối, đang chơi cái trò chơi con chữ của mình như phù thuỷ bỏ thuốc súng vào lửa, rồi cười khoái trá như trẻ con đang chơi chuyền hay chơi ô ăn quan vậy.

Vâng! Tuyết Nga làm thơ để chơi với đời một chút mà thôi. Và hình như khi làm thơ, người thơ tài tử có phần kiêu ngạo và bất cần này, không nghĩ gì đến ai cả. Người chỉ viết cho riêng mình, viết theo ý thích của mình, chính vì thế mà thơ mang đầy cá tính sáng tạo, lạ lẫm như từ trên trời rơi xuống. Một Tuyết Nga tài hoa, huyền bí, lạ lẫm, yểu điệu, sang trọng, tinh tế, biến hoá và sâu sắc đến lạ lùng.

Mặc dù không giống ai, nhưng qua thơ Tuyết Nga ta vẫn thấy phảng phất hơi thở và hình bóng của thơ Tagor, thơ Nêruđa, thơ Nadim Hitmet. Còn ở Việt
, Tuyết Nga chỉ giống Tuyết Nga mà thôi.
Mỗi bài thơ Tuyết Nga đều giống như một bức tranh thi hứng theo trường phái ấn tượng. Nhà thơ vẽ những bất hạnh của đời mình và của cuộc đời đầy khổ đau theo một bút pháp lãng mạn, siêu phàm. Nhìn tranh ta chỉ thấy đẹp, đẹp mê hồn... nhưng nếu hỏi đẹp như thế nào? Thì ta không thể trả lời một cách rành rõ được. Đó là bút pháp, là hướng đi, là con đường nghệ thuật thi ca mà Tuyết Nga đã lựa chọn cho riêng mình:

“Ánh mắt của đại ngàn vạn tuổi vách đá thâm u ánh lửa cháy rừng/vòm ngực của cánh đồng vô tận tiếng hú dài hoang lạnh hoàng hôn/cánh tay những vòng ôm của sóng đáy vực sâu nhoà lẫn những chân trời/anh/bản nháp của tình yêu một sớm”
(Bản nháp)

Ở mỗi câu thơ của Tuyết Nga, thậm chí mỗi chữ của Tuyết Nga, ta đều thấy rất rõ dấu ấn của sự lao động nghệ thuật ở đẳng cấp cao. Ta ít thấy sự dễ dãi, đơn giản, bình thường, như những nhà thơ bình thường mà ta vẫn gặp. Điều này, đã tạo ra sự khác biệt rất xa cho thơ Tuyết Nga, thơ chị như một hồ nước giữa sa mạc, một toà tháp giữa vùng đồi, một tiếng chuông chùa trong chiều vắng:

            Rồi một ngày bạc nắng ngoái tìm nhau
            Cả trời thu mục nát
            Cả biển sóng đã khô thành cát
            Miên man năm tháng vô thường
                                                (Rồi một ngày)

Khả năng liên tưởng trong thơ Tuyết Nga rất phong phú. Chị có tài gắn kết những nhân vật rất xa nhau, rất khác biệt nhau, thậm chí nhiều khi đối lập nhau để tạo nên những giá trị độc đáo. Giữa những con chữ trong thơ Tuyết Nga thường có nhiều khoảng trống rộng lớn, nhiều khoảng nghĩ rộng lớn. Chính vì thế mà biên độ thơ chị luôn được mở rộng với kích cỡ hoành tráng, ngòi bút chị tung hoành, vụt hiện, đột biến, đầy ma lực. Những khoảng trống ấy thường là nơi tấu lên những bản nhạc không lời rất hay, khi mà tiếng nói của con người đã trở nên bất lực, khi mà sự diễn đạt ngôn từ của nhà thơ không thể vươn tới. Đó là lúc mà bạn đọc tha hồ ngẫm nghĩ, tha hồ tưởng tượng, để tìm đến những thi vị, những thích thú cho riêng mình:

Thiếu phụ đi
Như một ánh sao ngày
Màu thời gian bạc con đường cỏ mọc
Chợt tiếng trẻ vụt ngời sau tĩnh lặng
Cả một mặt trời ngoái lại lung linh
                                    (Ký hoạ)

Tuyết Nga thường có những câu thơ dấp dính lòng thòng, chẳng ra thơ cũng chẳng ra văn xuôi, những câu thơ như từ một hành tinh xa xôi vừa được đĩa bay mang đến, đồn rằng ở nơi đó, con người thông minh hơn con người ở trái đất này. Đó là sự lòng thòng đầy gia công nghệ thuật cao siêu, là chỗ mà Tuyết Nga khác người, hơn người:

Anh bước vào ngày thu em bỏ ngỏ tự tin gom lại những úa vàng
Tự tin gieo một miền xao động
Kiên nhẫn chờ mùa lãng đãng qua

Tay mềm gỡ rối chiều sương lạnh vai anh giăng mắc lá me gầy
Sâm cầm trở lại cùng mây lạ
Ký ức nhập nhoà sau bóng cây
                                    (Không đề 2)
Hoặc:
Mái cổ ngõ nhỏ hương cốm thơm sương vỉa hè lá đổ
Ngút ngát chiều heo may
                                    (Nhật ký cuối thế kỷ)

Thơ Tuyết Nga nhiều khi ngọt ngào êm ái đắm say, nhưng nhiều khi lại lạnh lùng sắc nhọn như những mảnh vỡ thuỷ tinh. Có lúc thơ giương lên đôi cánh thiên nga như hai cánh buồm lớn đưa ta về bến bờ của mơ ước, có lúc lại giương lên như hai lưỡi kéo khổng lồ thật đáng sợ. Ta thấy băn khoăn lo lắng xiết bao:
Trái tim co ro nhón gót hãi hùng
Máu nhỏ xuống âm thầm kỷ niệm
Những giọt màu rong rêu
                        (Ảo giác 2)

Tuy lạnh lùng và sắc nhọn là vậy, tuy khổ đau và bất hạnh là vậy: cái lối khuya mà Tuyết Nga đi về không có ánh lửa chờ đợi, hạnh phúc với Tuyết Nga như tờ lịch đã bị đóng đinh, như cái cây không lá, với tay là chạm phải nước mắt, là chạm phải chợ trưa, mùa thu chỉ còn lại những cơn gió buồn xơ xác và cuộc đời của Tuyết Nga như bản nháp đầy dập xoá, khắc khoải đớn đau. Lúm đồng tiền không còn đung đưa với tóc mây nữa, trời đầy sương rơi lá rụng, niềm vui của Tuyết Nga như đồng tiền giật tạm, như mảnh vỡ thuỷ tinh “rơi long cong xuống ngày tháng khê nồng”. Tóc dài, vai nhỏ, mắt huyền trong... bây giờ ở đâu? Hỡi “hoàng hôn vắng gió”. Nhưng lỳ lạ thay! Con người “nhìn mặt trời đã có lúc xanh xao” ấy lại có một tấm lòng nhân ái đến vô cùng, tấm lòng của một con người đã đi qua nhiều khổ đau, giá lạnh; và trên tất cả là tấm lòng của một nhà thơ với nỗi buồn đau nhân thế, muốn được sưởi ấm cho con người:

            Em mở cửa ngôi nhà nghèo khó
            Nhóm lên từ đống thời gian mệt mỏi lụi tàn
            Một ngọn lửa kham khổ

            Để nỗi cô đơn đến sưởi dịu dàng
            Bên ngọn lửa mong manh vừa cháy sáng
                                                (Ảo giác 1)

Đó là ngọn lửa tin yêu vào cuộc đời, vào con người mà Tuyết Nga đã âm thầm truyền lại cho chúng ta. Ngọn lửa thiêng được ủ trong tro nóng của thơ ca vẫn luôn âm ỉ cháy và khi gặp nỗi đời nó sẽ bùng lên, mang lại ánh sáng kỳ diệu cho tình yêu sự sống.

Tôi đã tiếp cận với thơ Tuyết Nga, đã đến với “Ảo giác” của Tuyết Nga. Không phải bằng con đường của nhà phê bình văn học - những đại lộ nhẵn bóng quen thuộc, mà bằng con đường nhỏ của riêng mình - con đường của một người đang có nhiều trăn trở đi tìm cái đẹp của thi ca, con đường ảo mờ và đầy ma mị. Chỉ có con đường ấy mới đặng hiểu được những câu thơ siêu phàm của Tuyết Nga. Và tôi tin Tuyết Nga - kẻ lãng tử và phiêu bạt ấy, với những phép màu nhiệm của phù thuỷ, chị sẽ còn dâng hiến cho chúng ta nhiều bài thơ hay, nhiều viên ngọc quý hiếm, lấp lánh và toả sáng với thời gian.
Chùa Hương tháng 5/2005
Đ.N.K
(198/08-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.

  • LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.

  • LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H

  • NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.

  • Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.

  • TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.

  • PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)

  • NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.

  • LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.

  • THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…

  • VŨ DUY THÔNG        (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.

  • TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.

  • NGUYỄN THANH TÚ          (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)

  • LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.

  • FAN ANHCon người khác con vật không chỉ ở đặc điểm con người có một bản ngã, một cái tôi luôn biến động, mấu chốt nằm ở chỗ, con người có thể có nhiều bản ngã khác nhau, tồn tại một cách âm thầm trong những thế giới mà nhiều khi ngay bản thân mỗi cá nhân chúng ta cũng không thể am tường hết.

  • VĂN CẦM HẢI(Nhân đọc “Giọng nói mơ hồ” - Nguyễn Hữu Hồng Minh. Nxb trẻ 1999)

  • ĐỖ NGỌC YÊNHồ Quý Ly là một nhân vật lịch sử có thật. Hơn nữa ông đã từng làm đến chức quan Thái sư dưới thời nhà Trần khoảng từ năm 1370 - 1400, và lập nên nhà Hồ từ năm 1400 - 1407.

  • Phỏng vấn nhà nghiên cứu Nguyễn Việt - chuyên viên Hiệp hội CLB UNESCO Việt Nam – nhân cuộc triển lãm thư pháp thơ “Nhật ký trong tù” của Bác Hồ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế 8-2000

  • LÊ HUY QUANGVào ngày 19/5/2010 này, cả nước ta sẽ tưng bừng Kỷ niệm 120 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân Văn hóa thế giới, nhà thơ Hồ Chí Minh, một người Việt Nam đẹp nhất.