Đậm đà bản sắc Việt Nam trong những vần thơ chúc Tết của Chủ tịch Hồ Chí Minh

10:59 05/02/2010
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.

Ảnh: Internet

Gần như đều đặn, từ năm 1946 đến năm 1969, mỗi lần xuân tới, Bác Hồ đã gửi thơ chúc Tết của Người đến với đồng bào cả nước. Vì thế năm nào cũng vậy, các dịp cuối năm, nhất là trong những ngày sắp bước sang năm mới là mọi người nao nức chờ đón thơ chúc Tết của Bác Hồ. Nhưng thật ra chỉ khi đón giao thừa mới được nghe Bác nói trên Đài Tiếng nói Việt Nam chúc tết toàn thể đồng bào. Đầu năm Bác đọc thơ chúc Tết, khi ấy tất cả ý vị trong thơ của Bác mới khởi sắc lên hương, thấm vào lòng, in vào trí nhân dân ta, trở thành một niềm vui đầu xuân đối với mọi lứa tuổi, chan hòa với các niềm tin chung của dân tộc trong ngày Tết. Đây là lời một em thiếu niên:

Nhưng vui nhất bạn ơi
Là đêm ba mươi Tết
Pháo giao thừa nổ đét
Em dậy thức mẹ cha
Và kêu toáng khắp nhà
A... Bác Hồ đang nói
Ở trên tủ nhà ta
A! Bác Hồ đang nói
Ở trên tủ nhà ta,
A! Bác Hồ đang nói.
(Thơ của Trần Đăng Khoa).

Xưa các cụ nhà ta khai bút đầu năm, làm mấy câu thơ, ghép đôi câu đối, người ta tin rằng có thể bằng vào lời khai bút để đón nhận cả năm đối với người khai bút là hay hoặc dở, vui hoặc buồn.
Trước đây người ta đi chùa xin quẻ, đi bói thơ tiên... Phật ứng quẻ hay Tiên giáng bút thường bằng những bài thơ.

Ngày nay, người ta không làm những việc ấy nữa. Thay vào thơ Tiên, thơ Phật, người ta có thơ Bác Hồ. Bác Hồ khai bút trước toàn dân. Người ta đón đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ, đánh giá về tình hình năm cũ, nhận định về năm mới như thế nào và dặn dò toàn dân phải làm gì năm đó. Người ta bàn bạc trao đổi với nhau từng lời, từng ý trong bài thơ chúc Tết cổ động ngắn gọn của Bác để thấy được những khó khăn, thuận lợi, những triển vọng nhiều ít, gần xa như thế nào.

Người ta truyền cho nhau, năm nay thơ chúc Tết của Bác rất vui, thế là niềm tin náo nức trong mỗi tấm lòng. Hoặc năm nay đọc thơ chúc Tết của Bác dường như tình hình trước mắt có khó khăn, thế là người ta đăm chiêu, suy nghĩ... Nhưng thơ chúc Tết của Bác Hồ luôn luôn đem lại cho mọi người niềm vui, vì lẽ được sự lãnh đạo của Bác Hồ, cách mạng Việt luôn luôn chiến thắng. Suốt từ lúc giao thừa, trong mấy ngày Tết, câu chuyện về bài thơ chúc Tết của Bác Hồ là đầu mối câu chuyện. Và sau đó, trong cả nước, người ta tiếp tục ngẫm nghĩ về những ý tứ của Bác trong bài thơ chúc Tết, cùng đem đối chiếu với hiện thực, và những công việc lần lần được thực hiện, càng thấy những ý tứ của Bác, sự tiên tri, tiên giác của Bác sáng suốt và sâu sắc vô cùng. Thật "thơ Bác - ý dân" đó là câu người ta thường nói và nói như thế thật chí lý.

Lời Bác Hồ và thơ Bác Hồ nói trong phút giao thừa, toàn thể đồng bào trong nước và ở ngoài nước, bầu bạn ta trên khắp thế giới đều lắng nghe. Tiếng của Bác Hồ đến với những người đang vươn mình làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và những người đang đấu tranh bất khuất chống những kẻ thù của dân tộc của giai cấp. Giữa đêm giao thừa các chiến sĩ du kích ở hang Hòn Đất, ở rừng đước u Minh, ở rừng tràm Đồng Tháp Mười, ở núi rừng Tây Nguyên, ở cố đô Huế,... lời chúc Tết của Bác Hồ, và người bị thương quên đau, người bệnh thêm sức mạnh chiến đấu. Trong những trận tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt đầu xuân Mậu Thân, các chiến sĩ Giải phóng đã tiến vào tận hang ổ của Mỹ - ngụy để hỏi tội chúng "với vũ khí trong tay là thơ chúc Tết của Bác Hồ (thơ Lê anh Xuân).

Thơ chúc Tết Bác Hồ đánh dấu bước đi của thời gian và thúc đẩy thời gian tiến bước, mở rộng đường cho ta đi, rút ngắn những ngày tàn của đế quốc:

Hỡi bốn phương và những chiến trường xa
Xin lắng nghe... phút giao thừa đang chuyển
Bác Hồ gọi, ấy là mùa xuân đến

                        (Thơ của Tố Hữu)

Thơ chúc Tết của Bác Hồ, những vần thơ kỳ diệu đi khắp hai miền đất nước và tìm đến những đứa con đang còn xa Tổ quốc, vì lẽ này hay lẽ khác, vào từng nhà, vào từng tấm lòng và đến đâu thì em nhỏ mừng reo, cụ già trẻ lại, chiến sĩ vững tay súng hơn, công nhân - nông dân đều tay búa, chắc tay cày hơn.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ bao giờ cũng đem lại cho ta niềm vui đầm ấm. Đối với mọi người trong mỗi hoàn cảnh trên mỗi bước đường của cách mạng, hễ cứ đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ là thấy yên tâm, là thấy phấn khởi, là thấy dạt dào hi vọng là thấy tâm hồn rộn rã hẳn lên, sức lực dồi dào hơn và muốn lao ngay vào công việc.

Thơ chúc Tết của Bác Hồ bao giờ cũng là niềm tin son sắt vào hướng đi rực rỡ của cách mạng, tiếng hát vẻ vang của dân tộc. Niềm tin ấy, bởi vì nó là chân lý của trí tuệ, nên rất giản dị, rất cô đúc, rất tự nhiên. Bác Hồ đầu năm 1974 nói:

Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi
Thống nhất, độc lập nhất định thành công.
Bước sang năm 1948, Bác nhận định:
Thống nhất chắc chắn được
Độc lập quyết thành công.


Xuân 1949, là mùa xuân tưng bừng khí thế trong bài thơ nổi tiếng của Bác:
Người người thi đua
Ngành ngành thi đua
Ngày ngày thi đua
Ta nhất định thắng
Địch nhất định thua.


Năm 1950, Bác phát biểu:

Xuân này kháng chiến đã năm xuân
Nhìn xuân kháng chiến càng gần thành công
.

Càng gần thắng lợi, càng lắm khó khăn, nhân dân ta bước sang năm 1952, với lời khẳng định như đinh đóng cột của Bác:

Trường kỳ vì gian khổ
Chắc thắng trăm phần trăm
.

Lời Bác Hồ thường ngắn gọn, biểu lộ một điều đã được suy nghĩ rất chín, không còn có sự hồ nghi nữa. Trên quãng đường dài 8, 9 năm kháng chiến nhân dân ta một lòng theo Bác tới cùng. Mỗi năm là một chặng đường. Qua một chặng đường và bắt đầu một chặng đường mới, một lời nói khẳng định, cái ý chí sắt đá, cái quyết tâm lớn lao, cái thái độ vững vàng của Người dẫn đường quan trọng biết chừng nào! Niềm tin tưởng vào sự thắng lợi của kháng chiến như nhựa mạnh trong thân cây, một lời chúc đầu xuân của Bác Hồ làm cho muôn vàn lộc non nở rộ ở đầu cành, mườn mượt màu xanh hy vọng. Những khi buồm thuận, gió xuôi đã vậy, đến những khi gió to sóng cả, lời truyền lệnh của thuyền trưởng càng cần thiết để cổ vũ tinh thần toàn đồng đội nỗ lực chèo chống đúng phương hướng tiến thẳng tới đích. Bài thơ chúc Tết của Bác Hồ năm 1956, từng chữ, từng lời, tựa như đúc bằng thép già, khỏe chắc lạ thường:

Thân ái mấy lời chúc Tết
Toàn dân đoàn kết một lòng,
Miền Bắc thi đua xây dựng,
Miền Nam giữ vững thành đồng,
Quyết chí bền gan phấn đấu,
Hòa bình, thống nhất thành công./


Toàn bài thơ toát lên một ý chí vững vàng vô cùng. Đặc biệt từ câu thơ: "Miền giữ vững thành đồng" đã thành một khẩu hiệu, một ý nguyện, một lời thề thiêng liêng của cả dân tộc Việt .

Thơ chúc Tết của Bác Hồ mang lại cho chúng ta niềm vui lớn, vì chỉ nghe thơ Bác, đọc thơ Bác là ta có cảm tưởng như được thấy đón Bác vào nhà. Bác Hồ bước vào nhà ta với bước đi khẩn trương, dáng điệu ung dung - thư thái, nét mặt tươi cười - rạng rỡ, lời nói ấm áp - hiền từ và cả một tấm lòng khoan dung, độ lượng như trời cao, biển cả. Đầu xuân, còn gì sung sướng hơn được đón Bác vào nhà, còn gì phấn khởi hơn là được nghe Bác chúc Tết. Bác Hồ bao giờ cũng chúc Tết nhân dân trước - đó là một điều mà dễ thường chỉ riêng lãnh tụ của chúng ta mới có, mới làm.

Thơ Bác ấy là con người Bác: "Đại nhân, đại trí, đại dũng". Thơ chúc Tết của Bác là tâm tình của nhân dân ta, của dân tộc ta: ý nhị, duyên dáng, hồ hởi, sâu sắc, rất kín đáo và rất cởi mở.

Người ta truyền tụng thơ xuân của Bác Hồ, ngân lên, phổ nhạc nghe rộn rã, ấm cúng lạ thường, rất đậm phong vị ngày Tết. Lời nói đó thật là đúng. Ai mà quên được những câu thơ chúc Tết của Bác Hồ trong những năm bắt đầu kế hoạch 5 năm:

Mừng nhà nước ta 15 xuân xanh
Mừng Đảng chúng ta 30 tuổi trẻ
.

Năm 1961:

Mừng năm mới, mừng xuân mới
Mừng Việt , mừng thế giới
Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh.


Nhất là năm 1962:

Năm Dần mừng xuân thế giới
Cả năm châu phất phới cờ hồng
Chúc miền Bắc thi đua phấn khởi
Bốn mùa hoa Duyên Hải, Đại Phong
Chúc miền đấu tranh tiến tới
Sức triệu người hơn sóng biển Đông.


Những hình ảnh "15 xuân xanh", "30 tuổi trẻ", "đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh", "cả năm châu phất phới cờ hồng", "bốn mùa hoa Duyên Hải, Đại Phong", "sức triệu người hơn sóng biển Đông" sao mà rộn rã, vui tươi, reo vang một sức sống trẻ trung vô tận. Tố Hữu đã nói lên tất cả sự vui say, khỏe khoắn của mỗi tấm lòng khi được giao cảm với tấm lòng yêu đời, yêu người tuyệt vời của Bác Hồ:

Ôi, tiếng hót mê say còn chim chiền chiện
Trên đồng lúa chiêm xuân chao mình bay liệng
Xuân ơi, xuân vui tới mênh mông
Biển vui dâng sống, trắng đầu ghềnh
Thơ đã hát, mất trong lời chúc
"Đường lên hạnh phúc rộng thênh thênh"
Tam Đảo, Ba Vì vui núi xuân xanh.

                        (Bài ca mùa xuân 1961)

Những năm Tổ quốc bị chia hai, dường như mỗi lần xuân tới, mùa xuân đến với chúng ta chưa thật trọn vẹn. Ngày Tết đáng lẽ cả gia đình phải đoàn tụ thì hình như trong bữa cơm tại gia đình Việt Nam vẫn còn thừa đôi đũa, cái bát của một người con xa chưa về kịp - Miền Nam đi trước về sau!!!...

Ngay cái Tết Độc lập đầu tiên, cái Tết liền sau cách mạng tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, Tết Bính Tuất 1946, miền Nam đã ăn tết trong lửa đạn rồi! Vì vậy, trong lòng Bác bao giờ cũng dành chỗ ấm áp nhất cho miền . Bao giờ miền cũng có mặt ở đó, ăn tết với Bác. Hơn thế nữa, bao giờ tình thương của Bác cũng đến với miền đến với từng đồng bào miền ... Khi thì an ủi, khi thì khích lệ, khi thì ngợi khen. Tết năm 1946, Bác nhắn gửi miền :

Bao giờ kháng chiến thành công,
Chúng ta cùng uống một chung rượu đào,
Tết này ta tạm xa nhau,
Chắc rằng ta sẽ Tết sau sum vầy
.

Tết năm 1964, Bác ân cần dặn dò:

Bắc như cội với cành
Anh em ruột thịt, đấu tranh một lòng
Rồi đây thống nhất thành công
Bắc ta lại vui chung một nhà.

Tết năm 1967, Bác khen:

Chống Mỹ hai miền đều đánh giỏi
Tin mừng thắng trận nở như hoa.

Đến "Mừng xuân - 1969" là bài thơ mừng xuân cuối cùng của Bác Hồ gửi lại cho toàn dân tộc ta trước khi Người "lên đường theo Tổ tiên" (Tố Hữu). Đây là bài thơ xuân đẹp nhất Người gửi lại cho đời:

Năm qua thắng lợi vẻ vang,
Năm nay tiền tuyến chắc càng thắng to.
Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên!
Chiến sĩ, đồng bào!
Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn
.

Hai câu mở đầu nghe thật êm ái nhẹ nhàng, tràn đầy tình yêu và phấn khởi của nhà thơ, của chiến sĩ và đồng bào cả nước sau thắng lợi vang dội khắp nơi. Song, tiếp những câu sau thì nhịp thơ dồn dập, táo bạo, thần tốc. Động từ "đánh cho" đọc lên nghe thật sảng khoái, sung sướng. "Đánh cho" biểu hiện tính chủ động, khí thế hiên ngang của những người chiến đấu vì lẽ phải. Đọc "đánh cho" của Bác Hồ làm ta nhớ đến lời hịch của Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ quyết đánh tan 29 vạn giặc Thanh xâm lược thuở nào.

Đánh cho nó chích luân bất phản!
Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn!
Đánh cho sử tri quốc anh hùng chi hữu chủ!


Thật là một sự thú vị! Lời hịch của Quang Trung Nguyễn Huệ được phát ra từ mùa xuân Kỷ Dậu - 1789 và thơ "Mừng xuân 1969" của Bác Hồ cũng được phát ra từ mùa xuân Kỷ Dậu - 1969. Xa cách nhau 180 năm trời mà Nguyễn Huệ và Hồ chí Minh cả hai vị anh hùng dân tộc đều quyết tâm "đánh cho" đến tên xâm lược cuối cùng phải "cút" khỏi Tổ quốc ta!

Đúng như một nhà báo Mỹ đã cảm nhận: "chủ tịch Hồ chí Minh đã lãnh đạo nhân dân Việt kháng chiến bằng những vần thơ...".

Đồng bào miền đón thơ chúc Tết của Bác Hồ với một niềm vui riêng. Người đi xa mà nhận được tin nhà thì rất vui, huống hồ tin nhà lại toàn là tin vui, mà nhận được đúng vào dịp Tết nỗi niềm vui càng lớn. Trong niềm vui ấy, có một cái gì xúc động, vì đồng bào miền Nam có cảm tưởng là Bác Hồ đã vượt núi - băng ngàn - trèo đèo - leo dốc, đến với miền Nam. Chữ viết của Bác đây: còn tươi nét mực; giọng nói của Bác đây: rót vào mọi con tim; tấm lòng của Bác đây: tất cả vì miền ruột thịt; bàn tay của Bác đây: đang vẫy gọi miền ...

Đồng bào miền Nam lắng nghe thơ chúc Tết của Bác Hồ mà nước mắt lưng tròng. Đồng bào khóc! Đây là những giọt nước mắt vui, một niềm vui đặc biệt chỉ có trong hoàn cảnh lịch sử, hoàn cảnh tâm lý của miền mới có được mà thôi.

Hành quân trên quãng đường dài
Lắng nghe lời Bác qua đài chúc xuân
Đây lời Tổ quốc vang ngân
Đây kèn xung trận, giục gần, giục xa
Hào hùng hơn mọi bài ca
Từng lời, từng tiếng thiết tha ngọt ngào
Đêm nay ngồi giữa chiến hào
Bên bầy đạn pháo, ngậm sao trên trời
Gió về rất nhẹ sương rơi
Nghe thơ Bác vọng giữa trời quê hương
Vui sao ngày Tết hành quân
Lúc giao thừa tới dừng chân đỉnh đèo
Mừng xuân gió hát thông reo
Câu hò vượt dốc, băng đèo ngân vang
Quây quần mừng đón xuân sang
Lắng nghe như một lời vàng của cha
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua,
Thắng trận tin vui khắp nước nhà.
Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
Tiến lên!
Toàn thắng ắt về ta."


Đoạn ca dao do bạn Lê Minh Thủy sưu tầm, phần nào diễn tả khá rõ tâm tư của đồng bào miền đối với thơ chúc Tết của Bác hồ. Ta cũng rất dễ hiểu đồng bào miền Nam khi đã mang trong lòng một niềm vui lớn lao như thế thì rào thép gai nào mà chẳng băng qua, bốt đồn nào mà chẳng san phẳng, sào huyệt kiên cố nào mà chẳng sục vào tận nơi,
tường đồng vách sắt nào mà chẳng đâm thủng.

"Với vũ khí trong tay là thơ chúc Tết của Bác Hồ".

Thật vậy! Theo tiếng gọi của Người, cả miền Nam - cả dân tộc Việt Nam đã "tiến lên" ào ào như vũ bão, đã làm nên một "mùa xuân đại thắng - 1975", thực hiện hoài bão thiêng liêng của Người:

"Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn".

H.N.M – N.V.H
(120/02-99)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Hồ Thế Hà sinh năm 1955, quê ở thị trấn Ngô Mây, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Anh tham gia quân đội từ 1978 đến 1982, chiến đấu tại Campuchia. Hồ Thế Hà tốt nghiệp khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Huế năm 1985 và được giữ lại trường. Hiện anh là Phó Giáo sư, Tiến sĩ đang giảng dạy tại khoa Ngữ văn, trường Đại học Khoa học - Đại học Huế. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam. Anh đồng thời là Ủy viên Ban chấp hành Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Huế nhiệm kì: 2000 - 2005; 2005 - 2010. Chủ tịch Hội đồng Nghệ thuật Hội LHVHNT Thừa Thiên Huế, nhiệm kì 2000 - 2005; 2005 - 2010.

  • PHẠM PHÚ PHONGĐúng vào dịp Huế chuẩn bị cho Festival lần thứ III năm 2004, Vĩnh Quyền cho tái bản tập ký và truyện Huế mình, tập sách mới in trước đó chưa tròn một năm, năm 2003. Trước khi có Huế mình, Vĩnh Quyền đã có nhiều tác phẩm được bạn đọc chú ý như các tiểu thuyết lịch sử Vầng trăng ban ngày, Mạch nước trong, Trước rạng động, các tập truyện Người tử tù không chết, Người vẽ chân dung thế gian, Màu da thượng đế, tập bút ký Ngày và đêm Panduranga và tập tạp văn Vàng mai.

  • ...Không có sự lựa chọn nào cả, tôi đến với thơ như một nghiệp dĩ. Tôi nghĩ thơ là một thứ tôn giáo không có giáo chủ. Ở đây, các tín đồ của nó đều được mặc khải về sự bi hoan trần thế và năng lực sẻ chia những nỗi niềm thân phận. Cuộc đời vốn có cái cười và cái khóc. Người ta, ai cũng có thể cười theo kiểu cười của kẻ khác, còn khóc thì phải khóc bằng nước mắt của chính mình. Với tôi, thơ là âm bản của nước mắt...

  • …Có thể thấy gần đây có những xu hướng văn học gây “hot” trong độc giả, ví như xu hướng khai thác truyện đồng tính. Truyện của tôi xin khước từ những “cơn nóng lạnh” có tính nhất thời ấy của thị trường. Tôi bắt đầu bằng chính những câu chuyện giản đơn của cuộc sống hàng ngày, những điều giản đơn mà có thể vô tình bạn bước qua…

  • NGÔ KHAKỷ niệm 40 năm ngày Bác Hồ ra đi, chúng ta đều nhớ lại di chúc thiêng liêng của Bác để lại cho nhân dân ta. Đó là tình cảm và niềm tin của Bác đối với chúng ta ngày nay và các thế hệ mai sau.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 245 tháng 7-2009 và hết)

  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)