Cuộc chiến tranh Việt Nam - chiến tranh Iraq: nhìn từ phía bên kia

14:46 14/05/2009
HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

Năm 1998, tại Hà Nội, được hỏi về thất bại của Hoa Kỳ trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Robert Mcnamara- cựu bộ trưởng quốc phòng, cựu chủ tịch Ngân hàng thế giới đã tỏ ra hơi thiếu kiềm chế khi quát lại phóng viên BBC: "Chẳng lẽ chúng tôi thua ư? 60.000 người Mỹ và bên kia là 3.600.000 người, ông nghĩ xem?".

Sự cay cú vì phải nuốt một viên thuốc đắng quả thật không dễ dàng dẫu ngay cả đối với một người đã trải qua rất lâu rồi cái tuổi "tri thiên mệnh". Lòng kiêu hãnh bị tổn thương, đó là cái duy nhất quan trọng phá huỷ chút khách quan cuối cùng trong tư duy luận chứng của Mc. Ông ta muốn đảo ngược một sự thật bằng cái chết của hàng triệu dân thường trong những đợt ném bom huỷ diệt hay "rải thảm" chất độc màu da cam của Mỹ. Tuy nhiên, sự ngụy biện của Mc là điều có thể hiểu được vì cho đến tận bây giờ, Hoa Kỳ chưa thực sự đầu hàng trước bất kỳ một đối thủ nào, trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào. Người Mỹ đã từng dạy cho người Pháp biết cách "rút lui trong danh dự", năm 1954. Cơ sở lý giải của Mc cũng không ít: Năm 1962 Hoa Kỳ đã tiễn đưa một cách rầm rộ cuộc rút lui của tên lửa Liên Xô ra khỏi Cu Ba. Hơn nữa, bằng chứng thật rõ ràng là Trung Quốc vĩ đại đến nhường ấy nhưng suốt hơn nửa thế kỷ đã không thể đi qua 200 km của eo biển Bành Hồ, để tới Đài Loan...

Năm 1965, khi đưa quân Mỹ vào Việt Nam, tổng thống Lyndon B. Johnson đã tuyên bố: "Chúng ta sẽ không mệt mỏi. Chúng ta sẽ không rút lui. Chúng ta sẽ không thể bị đánh bại"(1). Johnson đã chứng tỏ ông ta là người số một trong thế giới của những nhà ngữ học biết sử dụng ý nghĩa trào lộng và phung phí nhất của ngôn từ.

Tuy nhiên, không phải tất cả mọi người Mỹ đều giống như thế. Một trong bốn bộ óc thông thái nhất nước Mỹ trong thế kỷ 20 là Henry Kissinger, đã nhìn thấy sự thất bại hiển nhiên của Mỹ từ năm 1967 khi xuất bản cuốn sách: "Thế giới sau Việt Nam. Tương lai của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ"(2). Sách của Kissinger được in vào thời điểm đỉnh cao của chiến lược chiến tranh cục bộ ở Việt Nam. Đây có thể được coi là lời tiên tri chính thức đầu tiên về tình trạng "Người Mỹ không thắng tức là đã thua. Việt Cộng không thua tức là đã thắng". Năm 1969, sau Tết Mậu Thân, tân tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon đã tin vào nhận định của Kissinger, người sẽ ký Hiệp định Paris, chứng minh ngược điều mà cố tổng thống Johnson, (chết năm 1971) đã cam kết, rút quân Mỹ khỏi Việt Nam.

Thất bại của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã, đang và sẽ cho giới cầm quyền Mỹ những bài học đáng giá:

- Mỹ không thể thắng một dân tộc quyết tâm, bền bỉ; có đường lối cách mạng đúng đắn, có phương pháp cách mạng sáng tạo.

- Trong một thế giới mà sức mạnh của Mỹ bị kiềm chế (bởi khả năng quân sự của Liên Xô, Trung Quốc), thì Mỹ buộc phải nhượng bộ dù vẫn đủ khả năng để thực hiện nước cờ mạo hiểm nhất.
- "Hậu phương là nhân tố thường xuyên quyết định đến thắng lợi của chiến tranh hiện đại"; nguyên tắc do Lê nin đề ra đã được kiểm nghiệm một cách đầy thuyết phục ở Việt Nam.

Bài học thứ ba rất có thể là bài học quan trọng nhất đối với giới lãnh đạo Mỹ. Trong thế chiến thứ hai, nước Mỹ đã góp phần quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức khi phá huỷ gần hết những nhà máy sản xuất vòng bi cho xe tăng và những cơ sở tinh chế dầu cho máy bay của Hitler. 20 năm sau, Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đã không chịu hiểu rằng, để đánh bại Mỹ, Việt Nam chỉ cần vài chục chiếc máy bay,và đôi khi có cả xe tăng. Hậu phương trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã và sẽ là một hậu phương chưa từng có trong lịch sử chiến tranh. Đó là sức sống mãnh liệt của chiến tranh nhân dân "Mỗi người dân là một chiến sĩ; mỗi thôn xóm là một pháo đài" (Hồ Chí Minh); là hệ thống xã hội chủ nghĩa và cả loài người tiến bộ trên toàn thế giới. Đảng, chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã thường xuyên củng cố, phát triển hậu phương của mình bằng nền ngoại giao tiết kiệm đầy ấn tượng ngay trong thời kỳ mà sự chia rẽ giữa Liên Xô và Trung Quốc là gay gắt nhất. Đó là mẫu mực của trí tuệ được kết hợp một cách tuyệt vời với sức mạnh của chính nghĩa; cũng như từ cách phân tích sắc sảo những biến động thực và ảo của một thế giới mà những chen lấn giữa quyền lực và quyền lợi được diễn ra với một tốc độ chóng mặt. Sự mềm dẻo và linh hoạt là cách ứng xử đầy hiệu quả để con người có thể tạo ra lịch sử của chính mình. Việt Nam là dẫn chứng đáng suy ngẫm về sự tương phản giữa một nền kinh tế lạc hậu đối nghịch tột cùng với năng lực sáng tạo phi thường.

Từ thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam, người Mỹ đã sửa chữa sai lầm một cách đáng chú ý vào năm 2001, ở cuộc chiến Afganistan. Taliban đã bị cô lập tuyệt đối, bởi chính họ và, bởi những nỗ lực ngoại giao nhiều sức mạnh của Mỹ.

Cuộc chiến tranh Việt Nam đã để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong cách nghĩ - hiểu của mỗi người dân Mỹ. Tổng thống Mỹ Jimmy Carter (1977 - 1981) đã làm được điều mà trước đó hàng ngàn năm chưa ai làm được: ông là người đầu tiên trên trái đất này dựng tượng đài để kỷ niệm một thất bại - Đài kỷ niệm chiến tranh Việt Nam. Bức tường chìm sâu một phần dưới lòng đất xuất phát từ hướng Lầu năm góc, vươn ra như hai lưỡi dao nhọn sắc của hai nét chữ V "đâm" thẳng vào Nhà Trắng và điện Capitol - tự nó đã diễn tả một cách đầy đủ nỗi đau của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Những khuôn mặt ủ ê, chán chường và đầy mệt mỏi của ba người lính trong cụm tượng đài đó như kéo dài thêm những bước lê chân trĩu nặng của quá khứ được đặt tên là Việt Nam sẽ mãi đeo đuổi (và nhắc nhở) người Mỹ trong thế giới này.

Sự thất bại trong cuộc chiến tranh Việt Nam đã đẩy giới cầm quyền Mỹ ngày càng đi đến gần hơn tới chỗ cực đoan: Quyết liệt và tàn bạo hơn; đó là nguyên tắc của mọi cuộc chiến tranh do Mỹ tiến hành, kể từ năm 1975. Đặc biệt, ngày 20 - 3 - 2003 Mỹ đã ngang nhiên tự cho mình "quyền" tấn công vào thủ đô Baghdad của Iraq mà không cần đến bất kỳ một sự nhất trí nào của Liên hợp quốc.Nhân loại đang đứng rất gần một tương lai mà sự bình đẳng giữa các quốc gia là điều sẽ làm cho lương tri của mỗi một con người trở thành cái dễ tổn thương nhất. Rất có thể trong tương lai không xa đó, sự quẫy đạp của lòng tự trọng và những tham vọng quyền lực sẽ làm bùng nổ những cuộc chiến tranh khủng khiếp. Một khi vũ khí hạt nhân lên tiếng thì cả người chiến thắng lẫn kẻ chiến bại - và tất nhiên,ngay cả người làm chứng cũng không còn,như Zbignew Brzezinsky đã nói.

Cuộc chiến tranh Việt Nam đã tạo nên sự phân hoá sâu sắc chưa từng có trong xã hội Mỹ. Hoa Kỳ đã không thể nào hiểu nổi vì sao một nền kinh tế - công nghiệp quân sự hùng mạnh như thế lại có thể bại trận trước nền văn minh đang ở trong "thời kỳ đồ đá"(!)

Khả năng chịu đựng và vượt qua của dân tộc Việt Nam là một trong những vấn đề khó lý giải nhất của lịch sử. Dưới góc nhìn của địa-văn hoá thì tảng đá lãnh thổ Trung Hoa đã từng đè nặng lên tấm bản đồ của người Việt tự rất lâu rồi nhưng có lẽ chỉ làm cho nó oằn xuống màì,vẫn mãi vẹn nguyên bản sắc của nền văn hoá Việt.

Chiến thắng của dân tộc Việt Nam đã khẳng định một trong số rất ít những chân lý của thời hiện đại: Một dân tộc dù nhỏ yếu đến đâu, vẫn có thể chiến thắng kẻ thù hung hãn nhất nếu có đường lối cách mạng đúng đắn, có quyết tâm và có phương pháp cách mạng sáng tạo. Phải mất 27 năm người Mỹ mới có thể nhìn thấy chân lý đó. Ngày 10 - 6 - 2002, tại New York, Colin Powell đã phát biểu đầy cảm xúc: "Tôi đã đến Việt Nam vào ngày Noel năm 1969 - một đại uý trẻ được cử đi chiến đấu trong cái sẽ trở thành cuộc chiến tranh dài nhấtduy nhất bị thất bại của Mỹ"(3). Đây là lần đầu tiên một chính khách Mỹ công khai thừa nhận thất bại. Hơn thế nữa, đó là một người từng giữ chức Tổng tham mưu trưởng liên quân trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và bây giờ, là đương kim ngoại trưởng Hoa Kỳ. Colin Powell là người có đủ mọi tư cách để đánh giá đúng về một cuộc chiến tranh, nhất là cuộc chiến tranh Việt Nam mà ông ta đã trải qua.

H.K.C
(171/05-03)

-------------------------------
 (1) Far Eastern Economic Revew, tháng 3- 1965, nguyên văn: " We will not tired. We will not withdraw. We will not defeated."
(2) The World after Vietnam. The Future of US Foreign Policy...
(3) Mỹ: những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại (phần 2); TTX Việt Nam, TLTK số 10-2002, tr.29.

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂMLý luận văn học và phê bình văn học là những khái niệm đã được xác định. Đó là hai thuật ngữ chỉ hai phân môn trong Khoa nghiên cứu văn học. Mỗi khi khái niệm đã được xác định, tức là chúng đã có đặc trưng riêng, phạm trù riêng. Và vì thế, mục đích và ý nghĩa của nó cũng rất riêng.

  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.